4 Chương 4
Sophie rõ ràng là chẳng giúp ích được gì cả. Nó chẳng nói gì khi tôi chào tạm biệt trên phố Tradd ngoại trừ một cố gắng cuối cùng khi chúng tôi chia tay, là khi nó nhảy lên chiếc xe con bọ Volkswagen của nó. “ ‘Cầu Chúa phù hộ cho cháu, Melanie. Ta đặt trọn niềm tin nơi cháu,’ ” nó trích lời ông Vanderhorst trong thư rồi đóng mạnh cửa xe và vọt đi mất, những bông hoa vàng rực trong chiếc bình cắm hoa trong xe lắc lư như cũng phẫn nộ cùng cô chủ.
Tôi đặt cái túi giấy đựng bánh tiêu đường cùng ly cà phê sữa mua ở tiệm bánh dì Ruth lên bàn, ngồi vào bàn, rồi bật máy tính lên. Tôi vừa mở túi bánh ra thì Nancy Flaherty đã bước vào, một tay cầm gậy đánh golf, tay kia cầm một xấp giấy ghi tin nhắn nhỏ màu hồng.
Tôi ngước lên đầy ngạc nhiên. “Sao hôm nay chị lại đi làm sớm thế?”
“À, ông Handerson cho em về sớm hôm thứ Bảy vì em có cuộc thi đấu golf ở câu lạc bộ, do đó em nói với sếp là em sẽ đi làm bù sớm vào sáng hôm nay.” Nancy mỉm cười. “Ðừng lo - em sẽ để cho chị yên. Em chỉ muốn chuyển cho chị vài tin nhắn này thôi. Ba tin trong số này là của Jack Trenholm đấy.” Cô nàng càng cười ngoác miệng to hơn.
“Ai?”
“Là nhà văn Jack Trenholm. Anh này viết sách về những chuyện lịch sử có thật, những chuyện vụ án mang tính chất bí ẩn và không có hồi kết. Những cuốn sách này luôn nằm trong danh mục sách bán chạy nhất đấy nhé. Và anh ấy thật sự là một anh chàng cực kỳ hấp dẫn, nếu ở ngoài đời anh ấy trông cũng giống như trong tấm hình in ở mặt sau cuốn sách anh ấy viết.”
Tôi chẳng thể hình dung được cô ta đang nói về ai cả. Nếu nói về đọc thì tôi chỉ có thời gian cho tờ nhật báo Người đưa tin mà thôi, cùng với danh sách nhà đăng bán. Một chút trí nhớ bỗng len lỏi vào suy nghĩ của tôi. Tôi rướn người lên. “Hồi còn nhỏ, tôi nhớ người bạn thân nhất của mẹ tôi là bà Trenholm, nhưng tôi nghĩ cái tên ấy khá thông thường nên có thể chỉ là tên trùng tên thôi, và tôi cũng không nhớ bà ấy có một người con trai. Dù có đúng thế đi nữa thì tại sao anh ta lại gọi cho tôi chứ?”
“Thì có lẽ vì anh ấy trẻ hơn chị vài tuổi, nên khi ấy anh chàng nằm ngoài tầm mắt chị khi chị còn nhỏ thôi. Hoặc là anh ấy hoàn toàn chẳng liên hệ gì đến bạn của mẹ chị cả.” Nancy dựng cây gậy đánh golf vào bàn của tôi rồi lật lật qua mấy tờ giấy nhắn tin. “Ðể xem nào. Anh ấy gọi ba lần vào hôm qua - tức là vào Chủ Nhật. Có vẻ như anh chàng rất muốn được nói chuyện với chị. Lúc ấy em không có ở đây, nếu không thì em đã tra hỏi anh chàng đến tận chân tơ kẽ tóc và không chỉ tìm ra lý do tại sao anh ta lại gọi mà còn biết cả loại đồ lót anh ta ưa thích nữa đấy nhé.”
Tôi đưa tay ra nhận lấy xấp giấy nhắn tin. “Cám ơn Nancy. Tôi sẽ gọi cho anh ta vào sáng nay.”
“Hay là vì anh ấy đã thấy hình chị trong những mẩu đăng quảng cáo của chị và muốn hẹn hò với chị chăng?”
“Phải đấy. Và có lẽ một ngày nào đó, môn đánh golf sẽ thay thế bóng chày để trở thành môn thể thao quốc gia cũng không chừng.”
Cô nàng lắc đầu. “Chị chẳng có đức tin gì cả[1]! Chị chỉ mới ba mươi chín tuổi thôi, và chị còn có một thân hình chết người nữa,” - cô ta nghía cái túi đựng bánh tiêu của tôi để trên bàn - “mặc dù có trời mới biết tại sao. Nếu chị có thể tự làm cho mình dễ gần hơn một chút, thì đám đàn ông sẽ ngã chết hàng loạt vì chị đấy.”
[1] Trích từ kinh thánh, nguyên bản: “Oh, ye of little faith” - lời ám chỉ những người ngoại đạo không tin vào Chúa Giêsu.
Tôi bắt đầu lật qua những tờ giấy nhỏ màu hồng còn lại. “Tôi sẽ ghi nhớ việc ấy, Nancy ạ. Còn bây giờ, làm ơn đừng để tôi làm gián đoạn công việc của chị nhé.” Tôi cười nhạt với cô ta.
Nhưng cô nàng lại phớt lờ lời nói bóng gió ấy của tôi. “Chị rất giỏi trong việc xoay đàn ông trong công việc, nhưng rõ ràng chị thật vô phương cứu chữa khi xã giao với họ. Có lẽ cũng vì cách chị được nuôi dạy từ tấm bé, nhưng chẳng hiểu vì sao chị cứ như một cô gái mới lớn hay ngượng nghịu mỗi khi chị gặp những người đàn ông tương xứng với mình.”
Lúc này tôi bắt đầu cảm thấy bực. Tôi liếc xéo cô ta. “Thật sao? Và từ lúc nào mà chị có thời gian đi học tâm lý học giữa những buổi đánh golf thế?”
Như thể tôi chưa hề nói gì, cô ta lại thao thao bất tuyệt. “Em nghĩ chị chỉ cần bước chân ra ngoài để thực hành từ từ. Rồi có lẽ chị sẽ nhận thấy rằng mình thật sự ưa thích một cuộc sống xã giao ngoài công việc.”
Tôi nhấc điện thoại lên và bắt đầu bấm nút gọi, hy vọng cô ta sẽ hiểu được ám chỉ ấy. Tôi nhướn mày với cô ta khi thấy cô ta chẳng nhúc nhích.
Cô nàng lại nhoài người lên bàn làm việc của tôi và chỉ tay vào đống tin nhắn rồi nói, “Còn có một tin nữa từ một cặp vợ chồng ở khu bắc Charleston. Em nhận tin ấy vào trưa thứ Bảy. Dường như họ đã xem xét lại tình hình tài chính của họ và sẵn sàng đi xem những ngôi nhà trên đảo Daniel Island mà chị đã bàn luận với họ từ trước.”
“Tôi tự đọc được tin nhắn cho mình mà, nhưng dù sao cũng cám ơn chị. Tôi sẽ gọi lại cho họ.”
“Không có gì,” cô ta nói, bước ra khỏi bàn của tôi và xoay nhanh cái gậy đánh golf. “Nhưng nhớ là đừng quên gọi cho Jack Trenholm đấy nhé.”
Tôi chẳng thèm đáp lại lời dặn dò ấy của cô nàng và cúp điện thoại rồi quay sang xem lịch làm việc trên máy tính xem hôm nay tôi có những cuộc hẹn gặp nào. Tôi có ba cuộc hẹn đưa khách đi xem nhà vào buổi sáng, nhưng tôi bận cả buổi trưa và chiều để đưa một anh giảng sư độc thân đi xem vài ngôi nhà. Anh này tên là Chad Arasi, trước đây sống ở San Francisco và sắp tới sẽ dạy môn lịch sử hội họa ở Ðại học Charleston. Từ những gì tôi thu thập được qua cuộc nói chuyện điện thoại, trong đó hầu như cứ sau mỗi một câu là anh ta lại nói “hay”, tôi quyết định sẽ thu gọn phạm vi tìm kiếm và chỉ đi tìm hiểu các căn hộ mới xây và hiện đại hoặc những nhà kho đã được cải biên và trang trí nội thất thành căn hộ ở phố East Bay. Còn các buổi tối của tôi thì, như thường lệ, luôn luôn trống. Có lẽ tôi sẽ có thời gian để sắp xếp lại ngăn kéo đựng vớ của tôi vào tối nay.
Khi tôi vừa nhấc điện thoại lên định gọi cho Chad để xác nhận cuộc hẹn gặp đầu tiên thì Nancy lại xuất hiện trước bàn làm việc của tôi và thảy lên bàn một cuốn sách dày to bản. “Em đã điều tra về anh ta qua Google và biết là anh ta còn độc thân và đang sống ở khu cộng đồng Pháp.”
“Ai thế...?” Tôi vừa bắt đầu hỏi thì cô ta đã bỏ ra ngoài. Tôi gác điện thoại rồi cầm quyển sách lên và đọc tựa sách: Tưởng nhớ trận đánh Alamo: Ðiều gì đã thực sự xảy ra với Davey Crockett. Bên dưới tựa đề quyển sách là những chữ in còn to bản hơn mang tên Jack Trenholm. Tôi khá chắc chắn rằng tôi không biết anh ta, nhưng tên họ này thật sự nghe rất quen. Trenholm. Trenholm. Tôi đọc tên ấy lên hai lần chỉ để xem nó có giúp tôi nhớ lại gì không, nhưng đầu óc tôi cứ trống rỗng. Tôi lật cuốn sách lên để đọc nội dung in ở mặt sau bìa sách và nhìn trực diện với tấm hình trắng đen tráng bóng của tác giả.
Là một phụ nữ độc thân, rất chú trọng đến nghề nghiệp và đang bước dần đến tuổi bốn mươi, ước gì tôi có thể nói mình không xao động trước một gương mặt đẹp như thế này, và ước gì tôi cũng có thể khăng khăng với thái độ chỉ biết có công việc rõ ràng thẳng thắn của mình mà thôi. Nhưng mà anh chàng Trenholm này, à thì, hay là cứ xem như bỗng nhiên tôi lại trở về thời còn là cô bé lớp sáu, chết ngất vì sung sướng khi Ned Campbell được giao cho chiếc tủ khóa ngay sát tủ của tôi ở trường.
Gương mặt anh chàng này trông rất điển hình kiểu Mỹ và đẹp rụng rời, như muốn nói với ta rằng Anh biết cách ném bóng bầu dục, nướng một ổ bánh ngon, tặng hoa hồng cho em, và làm cho giường chiếu phải rung ầm ầm, và trong trí tôi vừa lóe lên một việc rằng tôi đã có số điện thoại của anh ta, và rằng anh ta là người đã gọi cho tôi trước.
Tôi giữ quyển sách trong tay và tần ngần ngắm tấm hình trong một phút ròng, nhớ lại những gì Nancy đã nói về việc tôi cần phải dễ gần hơn và phải nghĩ đến các mối giao du của mình, hoặc nghĩ đến việc tôi chẳng có mối giao du nào cả. Ðặt quyển sách xuống, tôi lục tung tóe những mảnh giấy nhắn tin màu hồng khắp bàn cho đến khi tôi tìm thấy mẩu tin nhắn của anh ta và vồ lấy điện thoại trước khi tôi kịp tự ngăn mình làm việc ấy. Chưa kịp bấm máy thì Nancy đã nói rè rè vào điện thoại nội bộ của tôi. “Em đã bảo chị mà.”
Không thèm trả lời cô ta, tôi gác máy, cất thoại di động, và bước vào trong văn phòng ông Henderson để tôi có thể đóng cửa lại và nói chuyện riêng mà không bị quấy rầy.
Tôi hít một hơi thật sâu và tự lừa dối mình rằng đây chỉ là một cuộc gọi cho công việc. Một cách nhanh chóng, tôi bấm số điện thoại ghi trên mảnh giấy và chờ cho đến khi điện thoại reng chín lần rồi đến lượt hộp tin thoại mở ra. Tự nhủ rằng một nhà văn thì chắc hẳn phải dậy sớm, do đó tôi nghĩ có lẽ anh ta đang tắm khi tôi gọi, thế là tôi cúp máy mà không để lại lời nhắn nào và rồi lại để cho nó reng thêm chín tiếng nữa, nghĩ bụng lần này thì anh ta sẽ có đủ thời gian mà bước ra khỏi phòng tắm. Lần này những nỗ lực của tôi đã được đền đáp khi có tiếng nói ở đầu dây bên kia.
“Ai thế hả trời? Có biết bây giờ là mấy giờ hay không?”
Tôi bỗng sợ chết trân. Lần đầu tiên trong đời, miệng tôi không thể nói ra được lời nào mạnh mẽ hoặc mỉa mai nữa. Sự việc đã như thế này, tôi nên làm một việc mà bất cứ người phụ nữ tự trọng nào cũng sẽ làm rồi cúp máy. Nhưng Nancy Flaherty đã nói đúng: tôi vừa bị hóa thành một con bé mười hai tuổi đang líu lưỡi khi gọi cho một cậu bạn trai lần đầu tiên trong đời. Không rõ vì lý do gì nữa mà tôi lại chọn giải pháp ngụy trang giọng nói của mình sao cho nghe giống như nữ lao công người Mễ hoặc một nhà ngoại giao Nga nào đấy. “Tôi xin lối. Gọi nhẩm số.”
“Chờ chút. Công ty bất động sản Henderson... Tôi có biết cái tên này...”
Mẹ kiếp! Danh tính người gọi có hiển thị trên màn hình điện thoại. “Xin ông dzui lòng chờ trong giây lát, tôi sẽ nối máy cho ông gặp cô Middleton.”
Tôi che tay lên ống nghe điện thoại trong vài giây rồi áp nó lại vào mặt và bấm một nút để nghe tiếp bíp. “Xin chào, tôi là Melanie Middleton. Vui lòng cho tôi nói chuyện với Jack Trenholm.”
“Là tôi đây.” Tôi nghe có tiếng giật nước xả bồn cầu văng vẳng rồi sau đó là tiếng nước chảy.
“Tôi làm cho công ty bất động sản Henderson, và tôi hồi đáp cuộc gọi của anh.”
Tiếng nước chảy đã ngưng. “Phải, cám ơn chị đã gọi lại cho tôi.” Anh ta đang có cái gì đó trong miệng khiến anh ta không thể nói chuyện rõ ràng được.
“Tôi hy vọng đã không gọi anh quá sớm. Anh đã để lại ba tin nhắn ngày hôm qua nên tôi nghĩ chắc có việc khẩn.”
Anh chàng không trả lời ngay vì tôi nghe có tiếng đánh răng và tiếng khạc nhổ, và rồi tiếng nước chảy một lần nữa. “Ðừng bận tâm, dù sao thì tôi cũng đã phải ngồi dậy để trả lời điện thoại mà.”
Tôi cảm thấy mình đỏ mặt. Bực mình, tôi gắt, “Này, thay vì mang cái điện thoại theo mình vào trong phòng tắm, thì cứ gọi lại cho tôi sau khi anh đã xong việc có phải hơn không?”
Ngón tay tôi đã đặt ngay lên nút tắt điện thoại thì anh ta lại nói. “Bởi vì nếu thế thì cô sẽ mất cơ hội được tưởng tượng ra cảnh tôi đang không mặc gì trên người.”
Tôi cảm thấy vô cùng hãi hùng vì đó chính xác là điều tôi đang tưởng tượng. “Anh vừa nói cái gì? Với cái giọng điệu ngạo mạn ấy...”
“Này, thôi cho tôi xin lỗi nhé. Chỉ là tôi đang khó chịu một chút. Ðêm qua tôi thức rất khuya nên tôi chẳng muốn dậy quá sớm vào sáng nay. Hay là chúng ta bắt đầu lại cuộc nói chuyện này nhé?”
Tôi lại hít một hơi thật sâu, nhớ lại những gì Nancy đã nói ban nãy. Giờ đây tôi sẽ phải nỗ lực, mặc dù việc ấy như đang giết tôi mất. “Ðược thôi. Tôi là Melanie Middleton và tôi hồi đáp cuộc gọi của anh.”
“Cám ơn đã gọi lại cho tôi nhé Mellie. Tôi xin được hẹn gặp với cô để bàn luận về bất động sản trong khu vực.”
Ngạc nhiên với chính mình, tôi quên mất không đề cập đến việc chưa từng có ai gọi tôi là Mellie cả. “Có phải anh định chuyển nhà?”
“Cũng có thể. Bây giờ thì tôi chỉ có thể nói rằng tôi đang tìm kiếm các cơ hội tiềm năng mà thôi.”
“Ðược thôi.” Tôi chợt nhận ra mình đang ngồi trên bàn làm việc của sếp và vẽ nguệch ngoạc hình những quả tim trên sổ nháp của ông ấy. Rồi tôi nhanh chóng đứng dậy. “Cứ nói cho tôi xem anh đang tìm loại nhà nào.”
“Ôi, có nhiều thứ lắm, không nói hết qua điện thoại được đâu. Sao ta không gặp nhau nhỉ - ăn tối nhé?”
Mày rất chuyên nghiệp nhé, Melanie, tôi tự nhắc nhở bản thân mình và cố giữ cho giọng được tự nhiên. “Tối nay à? Chờ chút. Ðể tôi xem lịch đã.” Tôi bấm vào nút ngắt tiếng nói trên điện thoại và nhìn vào kim giây trên đồng hồ của mình, chờ đúng năm mươi chín giây rồi mới bấm nút nói trở lại. “Xin lỗi đã để anh phải chờ lâu. Chỉ là vì tôi cần hoán chuyển vài việc trong lịch hẹn để có giờ rảnh cho tối nay. Anh muốn hẹn lúc mấy giờ?”
“Bảy giờ được không? Tôi sẽ đến đón cô nếu cô cho tôi địa chỉ nhà.” Có lẽ anh chàng cảm nhận được sự do dự của tôi nên nói tiếp, “Ðừng lo - tôi không phải là thằng tâm thần đâu. Ba mẹ tôi là chủ hiệu Ðồ cổ Trenholm trên phố King đấy. Nếu cô nói chuyện với mẹ tôi thì bà ấy sẽ nói tốt cho tôi.”
Tôi biết rõ cửa hiệu ấy, mặc dù tôi mà đến đó thì chỉ có thể đứng ngắm những món đồ cổ tuyệt đẹp xuất xứ từ Anh và Pháp mà thôi. Ngoài ra, anh ta là một nhà văn có tiếng. Anh ta sẽ có nhiều lý do để lo về việc tôi rình rập đi theo anh ta hơn là ngược lại.
Tôi đọc cho anh ta địa chỉ nhà mình và sắp sửa cúp máy thì anh chàng lại nói.
“Ồ, à, Mellie này?”
“Vâng?”
“Sửa lại giọng đi nhé. Nghe mà khiếp.”
Không nói lời nào nữa, tôi cúp máy, rồi cứ đứng đấy trong văn phòng vắng lặng cho đến khi tôi biết chắc rằng sắc diện mình đã trở lại bình thường.
***
Tôi đứng trước gương soi, trầm trồ ngắm nghía chiếc váy đen bé xinh đáng giá gần bằng toàn bộ tiền hoa hồng cho một lần môi giới nhà của tôi. Nhưng khi tôi xoay người và nhìn lớp lụa rũ ôm lấy thân hình mình thì tôi biết rằng đó là một sự đổi chác công bằng.
Ngày hôm ấy mọi việc cũng khá trôi chảy. Anh bạn giảng sư lịch sử hội họa, Chad, là một loại khách hàng lý tưởng và mê toàn bộ những thứ tôi đã giới thiệu cho anh ta, và trong thời điểm hiện tại thì anh đã quyết định chọn một trong hai ngôi nhà kho chuyển hóa thành căn hộ gần khu Rainbow Row. Khi tôi gặp anh ta lần đầu tiên vào sáng hôm ấy, anh chàng mang giày xăng đan, quần jean lửng, áo thun hoa hòe, và tóc dài cột túm đuôi. Anh chàng hôn tôi vào cả hai bên má khi mới gặp, và khi anh ta xin lỗi đã đến muộn vài phút vì lớp yoga kéo dài hơn dự tính, tôi biết mình phải giới thiệu anh ta cho Sophie ngay. Tìm cho nó một người bạn tâm tình là một việc tối thiểu mà tôi có thể làm để cám ơn nó đã giữ giúp Ðại tướng Lee cho đến khi tôi tìm ra giải pháp tốt nhất cho con khuyển này. Và khi tôi đang mơ màng lên kế hoạch cho đám cưới của họ thì chuông cửa bỗng reo vang.
Tôi vòng xâu chuỗi hạt trai của bà nội quanh cổ mình, cài chốt xâu chuỗi lại, rồi bước ra cửa, thầm tự ngưỡng mộ khi chiếc váy tôi đang mặc đánh vút vòng quanh chân mình. Ðưa tay vuốt nhẹ lớp tóc đã được búi cao một cách trang nhã lần cuối, tôi mở cửa.
Ấn tượng ban đầu của tôi là tấm hình anh ta in trên bìa bọc sách hoàn toàn không xứng với con người thật của anh ta ngoài đời. Anh chàng rất cao, cao hơn chiều cao một mét bảy ba của tôi thêm cỡ một tấc, và đôi mắt xanh biếc của anh đang nhìn tôi giống y như cách tôi đang nhìn anh bằng đôi mắt mở to mang đầy vẻ ngạc nhiên.
Anh mặc áo sơ mi trắng hồ cứng, tay áo xắn đến khuỷu tay, quần soọc kaki, và mang giày mọi không có vớ. Tôi cũng để ý rằng anh ta trẻ hơn tôi, tiếp theo sau đó là tôi thấy cách ăn mặc của anh ta thích hợp với việc ăn tối ở một quán bình dân còn tôi thì lại ăn diện để đến một nhà hàng sang trọng.
Trước khi anh kịp nói gì, tôi đã nhanh nhảu nói, “Chờ một chút. Tôi để quên ví xách tay,” và đóng sầm cửa lại trước mặt anh. Tiếp theo là gì nào? Cảm giác của tôi như bong bóng xì hơi vì rõ ràng là tôi đã tưởng tượng ra một buổi tối trang nhã hơn so với dự định của anh, và bản năng đầu tiên của tôi là ra mở cửa rồi mắng nhiếc anh ta vì đã làm cho tôi hiểu lầm. Nhưng không, thay vào đó, khi nhớ lại nhiệm vụ của mình về vụ xã giao, tôi đứng trước cánh cửa đang đóng và nhanh chóng luồn tay vào tóc, tháo hết những chiếc kẹp tóc nhỏ ra và ném chúng lên trời. Khi tôi đã chắc chắn rằng không còn chiếc nào dính lại trên tóc, tôi vục mặt xuống đất để tóc bồng lên theo kiểu tự nhiên và bình dân hơn, tóm lấy chiếc ví xách tay, lúc này đang nằm trên bàn, rồi mở cửa. Nếu đây là việc giúp tôi trở nên dễ gần hơn, thì có lẽ tôi sẽ làm được không thành vấn đề.
Tôi mỉm cười trầm tĩnh và chìa tay ra. “Xin lỗi về việc ấy. Tôi là Melanie Middleton.”
Nụ cười của anh bắt chước hệt như trong tấm hình trên bìa sách, và tôi tự hỏi không biết có phải anh ta đã thực tập nhiều lần để cho nó được hoàn hảo đến thế hay không. Nếu tôi không phải là một người cực kỳ cứng cỏi thì tôi có lẽ đã chết mê nụ cười này rồi.
Cái bắt tay của anh thật mạnh và chắc và kéo dài hơi lâu. “Rất vui được gặp cô, Mellie. Với lại, chiếc váy cô mặc thật đẹp.”
“Ồ, cám ơn anh.” Tôi nói, nhận xét mang tính hạ bệ ban đầu về anh được kéo lên thêm vài bậc. Tôi cười rạng rỡ khi đưa anh ra khỏi tòa nhà và bước ra đường, nơi anh đậu xe. “Với lại, không ai gọi tôi là Mellie cả.”
Anh dừng lại trước một chiếc Porsche màu đen bóng loáng và mở cửa xe cho tôi. “Nhưng cô trông giống như một cô Mellie nào đấy.”
Tôi trượt lên chiếc ghế da và ngước nhìn anh, hơi lúng túng. “Nhưng anh đã gọi tôi là Mellie ngay trước khi gặp tôi cơ mà - khi chúng ta nói chuyện qua điện thoại ấy.” Thật ra tôi không định mồi nhử một lời khen, mà là tôi muốn biết có phải anh ta gọi tôi như thế vì đã nhìn thấy hình tôi trên các mẩu quảng cáo hay không. Chẳng phải là tôi kiêu căng gì, mặc dù tôi cũng có khá nhiều tính xấu, nhưng sự thật là đã lâu, lâu đến mức thật xấu hổ, kể từ khi có một anh con trai gọi tôi bằng những cái tên âu yếm, và giờ đây tôi cần phải đánh động cái tôi của mình lên.
Anh nhún vai và đóng cửa lại, rồi đi vòng qua phía bên kia và trượt người xuống sau tay lái. “Tôi phải nói gì đây? Tôi là một người nghiên cứu tỉ mẩn - đó là nghề của tôi. Và tôi đã muốn tìm hiểu nhiều hơn về cô, thế là tôi chỉ cần vào thư viện và nghiên cứu các tài liệu lưu trữ của họ. Bởi vì cô xuất thân từ một gia đình có tiếng như thế, thì tôi biết cô phải được lên báo khắp nơi. Ðiều tôi thích nhất là việc cô đã đoạt giải thưởng hạng nhì trong cuộc thi múa gậy năm cô học lớp hai. Có một bức hình cô chụp chung với mẹ, và tôi biết bà ấy đã gọi cô là ‘Mellie’ trong bài báo ấy.”
Tôi nhìn đi nơi khác. “Tôi thích Melanie hơn,” tôi nói một cách yếu ớt.
Ðộng cơ xe rồ nhẹ khi anh vặn chìa khóa và hướng ra dòng xe cộ vào đầu hôm rồi băng ngang cầu Cooper River. Chúng tôi lái nhanh qua khu East Bay và rồi vào một dãy những con đường nhỏ. Khi chúng tôi dừng đèn đỏ, tôi nhìn vào một ngôi nhà một tầng xiêu vẹo đổ nát, mái hiên nhà lụp xụp như một mí mắt ủ rũ. Ngồi trên chiếc ghế dưới hàng hiên là một ông già trong trang phục quân nhân đang nhìn tôi. Tôi để ý ra ngay là ông ấy cụt cả hai chân và máu từ vết thương do bị bắn vẫn còn dính trên trán. Run rẩy, tôi quay đi nơi khác.
“À, trông cô thật xinh đẹp. Nhưng không hiểu tại sao cô lại thay đổi kiểu tóc.” Anh ta lại cười, một kiểu cười mà tôi biết có chủ ý làm cho phụ nữ phải tan chảy ra, mà tôi thì không hề muốn bị ảnh hưởng bởi việc ấy.
“Ừm, cám ơn.” Tôi vuốt tóc lại. “Vào phút chót thì tôi lại nghĩ rằng thả tóc ra trông được hơn.”
Anh gật đầu, lái xe xuống con đường toàn những cửa hiệu và cửa hàng cầm đồ bị bỏ phế. “Chúng ta sẽ đến quán Râu Ðen - cô đã đến đấy bao giờ chưa?”
Dĩ nhiên là không. “Thật ra là chưa, mặc dù cái tên nghe quen quen - nhưng chắc không phải là nhà hàng mà tôi đang nghĩ đến. Nhà hàng này mới mở à?”
“Không hẳn thế. Tôi nghĩ nó đã có ở đây từ thời còn cấm sản xuất và bán rượu bia cơ. Nó không thuộc về những nơi thu hút du khách - đó là tại sao tôi thích nơi này. Họ có món tôm luộc ngon nhất mà tôi từng được thưởng thức.”
“Thích nhỉ,” tôi nói, thật sự không tưởng tượng nổi việc ngồi ăn tôm và vây bẩn tay chân là lý tưởng cho lần hẹn hò đầu tiên như thế này. Thật không có gì hãnh diện bằng lúc có những chiếc chân tôm be bé nhét giữa kẽ răng ta khi ta cười cả.
Jack rẽ vào một điểm đậu xe phía trước một nơi mà tôi chỉ có thể mô tả là một quán rượu nhơ nhớp tồi tàn, rồi tắt máy xe. Chẳng may, tôi biết nơi này khá rõ mặc dù chưa bao giờ phải bước vào bên trong. Có một cặp đang ôm chặt, môi quấn vào nhau; có vẻ như họ đang dựa vào tường của tòa nhà và làm tình khi vẫn còn mặc đầy đủ quần áo. Tiếng nhạc ồn ào và những tràng cười say mèm lơ lửng bao lấy tôi, và tôi nhìn quanh, tự hỏi không biết có nơi nào khác gần đây mà tôi có thể đề nghị đổi chỗ thay vì vào quán Râu Ðen hay không. Khi tôi quay sang Jack để hỏi, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy anh đang rướn người về tôi với cánh tay duỗi rộng ra.
Không nói một lời, anh tự động gỡ ra hai chiếc kẹp tóc trên đầu tôi và chìa chúng ra. “Cô bỏ sót hai chiếc kẹp đây này.”
“Cám ơn,” tôi nói, tóm lấy hai chiếc kẹp, sự chú ý của tôi lúc này quay sang quầy rượu mà chúng tôi đã đậu xe phía trước. Tấm bảng hiệu treo bên trên cánh cửa có dòng chữ Làng nướng và quán rượu Râu Ðen. Hình ảnh món cá hồi đút lò và súp thịt rùa trong trí tôi đã bay xa, nhanh chóng nhường chỗ cho hình ảnh của chiếc yếm nhựa to đùng, đủ to để che phủ chiếc váy hàng hiệu của tôi để tránh không bị vỏ tôm vấy vào.
Tôi nhìn ra đường, không nhìn thấy chiếc xe màu xanh thủy quân hiệu LeSabre sản xuất năm 1986 quen thuộc mà tôi đã cầu nguyện đừng bao giờ thấy. “Mình ăn ở đây à?” Tôi gần như không thể che giấu được sự hờn dỗi trong giọng nói của mình.
“Tin tôi đi - cô sẽ thích các món ăn ở đây. Và không khí ở đây cũng chẳng tệ lắm.”
“So với cái gì?” tôi vừa hỏi vừa thở khi anh dắt tôi đi vào trong.
Cách bày trí bên trong quán hoàn toàn khá hơn so với bên ngoài. Tôi cũng không rõ có phải tôi đã nghĩ sàn nhà ở đây sẽ đầy bụi bặm và tường thì dán đầy các tấm áp phích phim ảnh hay không, nhưng tôi rất ngạc nhiên khi thấy sàn gỗ bóng loáng bên trong. Có vài người quay lại và reo hò chào Jack, rồi anh chào lại mọi người và gọi tên từng người một. Tôi điểm mặt đám đông, rồi thở ra nhẹ nhõm khi không nhận ra người quen nào.
Chúng tôi được đưa vào bàn bởi một cô gái giọng đầy mơn trớn mà các bước đi uốn éo của cô ta dường như lại bị vướng bởi bộ ngực đồ sộ, cả hai thứ ấy dường như cùng tạo nên sự thích thú đặc biệt nơi người tôi đang hẹn hò tối nay.
Cô nàng đưa chúng tôi đến một chiếc bàn sạch trong góc sau của quán, nơi có ban nhạc sống đang chơi nhạc rock nhưng không quá to đến nỗi không nói chuyện được. Cô gái đặt hai bản thực đơn bằng nhựa lên chiếc bàn bằng nhựa thông tổng hợp, rồi hôn lên môi Jack trước khi bước đi lấy nước uống mà chúng tôi đã gọi, cô ta vừa đi vừa cố đánh hông cho ra vẻ gợi tình.
Jack thôi không nhìn cô phục vụ bàn để kéo ghế cho tôi. Tôi ngồi xuống, cố lau sạch mặt ghế mà không quá lộ liễu. Anh kéo ghế của mình sát vào bàn rồi nói. “Nơi này hay chứ nhỉ?”
“Ồ, dĩ nhiên rồi.” Tôi nói rồi nhìn xung quanh, ước gì mình có mang theo giấy ướt diệt khuẩn. Các bức tường được che kín bởi các biển hiệu bia và một bộ sưu tập các loại đầu cá sấu phơi khô khác nhau, một trong số chúng dường như đang ngắm nhìn tôi một cách thích thú. Một đám đông những người đàn ông đang ngồi ở quầy rượu vừa tung hô ồn ào và giơ cao chai bia, rõ ràng là họ chúc mừng ai đó trong nhóm vốn đang ngồi khuất đâu đấy mà tôi không thấy.
Tôi cố mỉm cười khi chúng tôi bắt chuyện, và tôi đọc kỹ thực đơn, cố tìm món gì thật an toàn. Khi cô phục vụ bàn quay lại nhận thực đơn, tôi chọn món bánh mì kẹp thịt gà tẩm nhiều tiêu và món phụ là cơm trắng.
Jack trông có vẻ ngạc nhiên. “Cô không thích ăn tôm à?”
“Phải, tôi thích tôm, nhưng mà...”
Anh vẫy tay về phía tôi. “Vậy thì cô phải gọi món đó.” Anh ngước nhìn lên cô phục vụ. “Cho chúng tôi một hộp lớn cho hai người nhé, với khoai tây đỏ và bánh bông lan bột ngô - thêm nhiều bơ vào.”
Tôi giận dữ nhìn anh ta nhưng cố kềm lại, nhớ đến những gì Nancy đã nói về việc làm cho mình dễ gần hơn - mặc dù khi nào gặp lại, tôi sẽ phải hỏi cô ta tôi cần chuẩn bị tinh thần để tự hạ mình bao nhiêu nữa trước khi tôi có thể tuyên ba mình đã thành công.
Tôi nhấm nháp ly trà đường của mình trong khi anh ta uống nước ngọt, và trong khi tôi cố lục lọi trong trí xem mình có mang theo chỉ tơ nha khoa hay không thì anh nói.
“Thế, làm sao mà cô quen với ông Vanderhorst?”
“Hả?”
“Ông ấy để lại ngôi nhà cho cô, đúng không? Tôi chỉ tò mò không biết cô quen ông ấy trong trường hợp nào.”
Charleston cứ tự cho mình là một thành phố lớn, nhưng rõ ràng nó không khác gì hơn là một thị trấn nhỏ đông đúc, nơi mà mọi người thích buôn chuyện qua hàng rào sau nhà với tốc độ trao đổi còn nhanh hơn cả thư điện tử.
“Tôi không hề quen biết ông ta. Tôi có đến thăm ông ấy để xin phép ông cho tôi được đăng bán ngôi nhà khi ông về sống ở nhà dưỡng lão, và rồi việc kế tiếp mà tôi biết, là ông ấy qua đời và để lại cho tôi ngôi nhà ấy.”
Anh gật đầu chầm chậm, đôi mắt anh nheo lại. “À, vụ này khá mới với tôi đây. Tôi đã từng tra cứu những câu chuyện như có những người đã để lại khối tài sản to đùng cho con mèo hoặc chó cưng của họ, thậm chí một con chuột lang, nhưng chưa bao giờ cho một người lạ.” Anh lại mở nụ cười quyến rũ của mình. “Thế thì khi nào cô dọn vào nhà mới?”
Hình ảnh vốn đang rất mong manh về người tình trong mộng của tôi giờ đây đã tan tành mây khói. Tôi lại dựa vào ghế, cố không nghĩ đến việc đã quá phí phạm khi diện chiếc váy đắt tiền này hay những khoảng thời gian trống trong lịch của mình. “Anh không thật sự mời tôi đi ăn tối để bàn về bất động sản, đúng không?”
Cuối cùng thì anh cũng tỏ vẻ bẽn lẽn. “À thì, đại loại là như thế. Ngôi nhà mới trên phố Tradd của cô chẳng phải là bất động sản à?”
“Ðó không phải là nhà của tôi - tôi chưa hề đồng ý về bất cứ việc gì cả.” Tôi quan sát gương mặt anh rồi đến đôi vai anh đang căng ra bên dưới chiếc sơ mi trông thật hoàn hảo, và rồi lại lấy làm tiếc vì những điều tôi vừa định nói ra. Tuy nhiên chính những điều mong muốn ngu ngốc của tôi mới khiến cho tôi bị bẽ bàng, và sự bẽ mặt này đến lượt nó lại kích thích sự kiêu hãnh đang bị tổn thương trong tôi.
Tôi đẩy lùi ghế lại. “Này, tôi nghĩ việc này có lẽ sẽ không đi đến đâu. Gọi cho luật sư của ông Vanderhorst nếu anh muốn biết thêm về ngôi nhà. Tôi sẽ gọi taxi.”
Anh nắm lấy tay tôi rồi giữ lại trước khi tôi kịp đứng dậy. “Tôi xin lỗi. Lẽ ra tôi cần phải thẳng thắn với cô ngay từ đầu. Nhưng cô biết không, bởi vì cô có tiếng là một phụ nữ cứng rắn nên tôi thấy cách duy nhất để có thể nói chuyện với cô là tiếp cận cô trong một khung cảnh mang tính xã giao hơn.” Rồi anh cười ngoác miệng. “Thật lòng, tôi rất lấy làm tiếc. Và cô biết không, sau khi nhìn thấy hình cô trong các mẩu quảng cáo trên báo thì tôi lại không nghĩ rằng việc này sẽ khó đến thế.”
Cái tôi đang bị tổn thương trong tôi không cho phép mình mắc phải mồi nhử này. “Tôi không phải là cô gái mới lớn đâu nhé, anh đừng mất công bợ đỡ làm gì. Tạm biệt.”
Tôi cố giằng ra nhưng anh đã giữ tôi lại chặt hơn nữa. “Thôi mà, dù sao thì chúng ta cũng đã đến đây rồi, mình cứ ngồi ăn và trò chuyện một chút nhé. Biết đâu tôi sẽ có được toàn bộ thông tin mà tôi cần để rồi cô không bao giờ phải nhìn thấy bản mặt của tôi lần nào nữa.”
Cô phục vụ bàn đã quay trở lại cùng với hộp tôm và khoai tây đỏ cùng hai chiếc yếm bằng nhựa. Miệng tôi bắt đầu chảy dãi. “Tôi cũng không chắc là...”
Có lẽ anh đã cảm nhận được sự do dự của tôi vì lúc này anh đã nghiêng cái hộp để tôi có thể nhìn thấy những con tôm luộc mọng nước và thơm lừng mùi gia vị hải sản. Tôi bắt gặp cái nhìn của anh. Rõ ràng được ở bên anh để giết thời gian vào buổi tối như thế này thì cũng chẳng tệ lắm.
Tôi ngồi lại vào ghế. “Thôi thì, bởi vì anh đã mất công cho mọi việc như thế này rồi nên chúng ta có thể nói chuyện vậy. Nhưng tôi phải nói trước, rằng tôi hầu như hoàn toàn không biết gì về ngôi nhà này, ngoại trừ việc nó đang rã rời thảm hại và tôi chẳng muốn làm gì với nó cả. Tôi phải quyết định có nhận nó hay không trước ngày mai. Và hiện giờ tôi vẫn chưa biết mình nên làm gì.”
Anh rướn người dựa lên hai khuỷu tay. “Như thế là tốt rồi. Nhưng để tôi nói cô nghe cái này. Tôi hiện đang có một ý tưởng mới cho quyển sách sắp tới của mình. Hồi năm một chín ba mươi, đã có nhiều tình tiết ly kỳ xoay quanh ngôi nhà của cô lắm. Nghe đồn ở đó có một người vợ đảm đang và cũng là người mẹ hiền đã chạy trốn theo một người đàn ông khác, bỏ lại đứa con mới lên tám tuổi của mình, và rồi có những lời đồn khác về vụ buôn rượu lậu của chồng bà ấy cùng với những lời đoán mò về điều gì đã thực sự xảy ra cho vợ ông ấy. Tôi hy vọng biết đâu ông Vanderhorst đã nói gì về việc ấy khiến tôi có thể bắt đầu chóng vánh cho việc nghiên cứu của mình.” Anh lại giở cái giọng cười ấy ra một lần nữa và tôi sẽ là kẻ nói dối nếu tôi nói rằng mình được miễn dịch với nụ cười này. “Tôi hứa sẽ không làm cho việc này quá khó khăn lắm đâu. Thậm chí cô sẽ còn cảm thấy thư giãn trong khi tôi đang cố moi móc thông tin nữa đấy.”
Tôi nghía nhìn cái bánh chocolate to đùng đang được mang ra cho bàn bên cạnh. “Ðược thôi. Nhưng anh sẽ chỉ có” - tôi nhìn đồng hồ - “hai tiếng và mười chín phút. Tôi đi ngủ lúc chín giờ rưỡi mỗi tối.”
“Ðồng ý. Chúng ta sẽ trò chuyện trong khi ăn nhé. Ðưa cho tôi cái đĩa nào.” Anh xúc đầy thức ăn vào đĩa cho tôi trong khi tôi đeo cái yếm nhựa vòng quanh cổ. “Cô có bao giờ nghe đến cái tên Joseph Longo hay không?”
“Mơ hồ lắm. Tôi có biết ông ta không nhỉ?” Lúc này tôi lại nghía cái đĩa trong đó có mấy sinh vật mắt sáng sống dưới đáy bùn, hít hà mùi gia vị hải sản thơm xộc mũi, và bắt đầu lột vỏ tôm. Tôi đã không còn bận tâm xem mình trông như thế nào khi làm cái việc ấy bởi vì hiện giờ tôi không còn đang hẹn hò lãng mạn gì nữa và, do đó, cũng không còn cần phải cố làm ra vẻ dễ gần làm gì.
“Nếu cô có biết gì về lịch sử của ngôi nhà thì cô sẽ biết nhân vật này. Ông ta đứng sau hầu hết tất cả các hoạt động tội phạm có tổ chức đã diễn ra trong thành phố từ thời cấm sản xuất và bán rượu - chẳng hạn như mại dâm, rượu lậu, cờ bạc - bất cứ thứ gì. Ông này cũng đã từng mê đắm đuối người đẹp lừng danh Louisa Gibbes của thành phố Charleston thời ấy.”
“Ðược lắm. Thế những việc này thì có liên quan gì đến ngôi nhà của tôi chứ?”
Anh nhìn tôi đầy thích thú. “ ‘Nhà của tôi’ hả?”
Tôi thoa bơ lên một miếng bánh bông lan bột ngô. “Anh biết ý tôi muốn nói gì mà.”
Anh chỉ gật đầu và cầm lên một con tôm to. “Phải, cô Louisa Gibbes đã đính hôn cùng Robert Vanderhorst, là ba của ông Nevin Vanderhorst đã quá cố.”
Tôi chờ anh ta uống cạn chai bia trước khi kể tiếp.
“Theo những tài liệu nghiên cứu của tôi, Joseph vẫn không ngừng theo đuổi cô Louisa xinh đẹp thậm chí sau khi bà ấy đã đi lấy chồng, mặc dù mọi người đều tin rằng bà ấy yêu chồng thật nhiều. Dường như người đàn ông này không thể chấp nhận một lời từ chối thì phải.”
“Một hành vi rất tiêu biểu của giống đực.”
Jack nhướn một bên mày nhưng không bình luận gì. “Dù sao thì, Louisa đã có một người con trai và bà có vẻ rất mãn nguyện với cuộc sống. Ít ra là cho đến khi con trai bà được chừng tám tuổi. Không lâu sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm hăm chín, bà bỗng biến mất, bỏ rơi đứa con duy nhất của mình. Và Joseph Longo cũng biến mất. Người ta đồn đại rằng họ đã bỏ trốn cùng nhau.”
Ngay sau khi thị trường chứng khoán sụp đổ vào năm hăm chín, bà bỗng biến mất, bỏ rơi đứa con duy nhất của mình. Bỗng nhiên, tôi mất hứng chẳng còn muốn ăn nữa. “Họ có bao giờ tìm ra bà ấy không?”
Jack bẻ một miếng vỏ tôm và đưa lên miệng. “Chẳng hề. Không có bất cứ dấu vết gì của bà ấy hay ông Longo cả. Họ đã biến mất trên bảy mươi năm mà chẳng ai từng gặp hoặc nghe tin tức gì về họ cả.”
Tôi uống một hơi dài món trà đường, cố nuốt vào hương vị của mất mát và bị bỏ rơi vốn luôn luôn nán lại trong vòm họng mình, rồi đặt hai bàn tay lên bàn như cố giữ cho nó không lung lay. “Tôi cho rằng con trai bà ấy không bao giờ tin rằng mẹ mình đã bỏ rơi mình.”
“Ðiều gì khiến cô nói như thế?”
“Ông Vanderhorst đã để lại cho tôi một bức thư. Trong thư này ông ấy nói rằng mẹ ông đã yêu ngôi nhà nhiều như thể bà đã yêu ông ấy, và rằng hầu như tất cả mọi người đều chẳng tin vào điều này bởi vì bà đã bỏ rơi cả hai.” Tôi nhắm mắt lại trong giây lát, mường tượng lại nét chữ đậm trong thư mà tôi đã đọc rất nhiều lần, đến nỗi giờ đây tờ giấy đã mềm ra. “Ông ấy nói rằng còn nhiều điều khác đằng sau câu chuyện ấy nữa, và có lẽ định mệnh đã mang tôi đến cho ông ấy để mang sự thật ra ánh sáng, để bà mẹ tội nghiệp của ông ấy cuối cùng cũng có thể yên nghỉ.”
Jack dựa lại vào ghế, quên mất đĩa thức ăn trước mặt. “Nghe giống như một câu chuyện ma nhỉ. Cô có nhìn hoặc nghe thấy gì không?”
Tôi nhìn anh, hoảng vía. “Dĩ nhiên là không. Nhưng tại sao anh lại hỏi thế?”
Anh khoanh tay trước ngực và không nhìn ra nơi khác. “À thì, mẹ của cô đã từng rất nổi tiếng ở đây về khả năng... tôi nghĩ cô sẽ gọi đó là giác quan thứ sáu chăng? Từ những gì tôi đọc được thì nghe nói mọi người rất thích bà ấy tại các bữa tiệc. Do đó tôi nghĩ nếu những câu chuyện về khả năng siêu nhiên này của bà là có thật thì cô có lẽ cũng được thừa hưởng ít nhiều khả năng ấy. Và nếu thế thì cô sẽ giúp tôi tiết kiệm thật nhiều thời gian điều tra và nghiên cứu nếu cô chỉ cần hỏi trực tiếp từ nguồn, cô hiểu ý tôi muốn nói gì chứ?”
Ðầu ngón tay tôi trở nên trắng bệch khi tôi ấn mạnh chúng xuống bàn. “Tôi không nghĩ những thứ ấy mang tính di truyền - nếu anh tin vào mớ chuyện ấy.” Cô phục vụ bàn lại đến và tôi nhờ cô ta mang đi đĩa thức ăn của tôi khi ấy chỉ vừa vơi một nửa.
“Thế ông Vanderhorst có nói gì thêm nữa không? Bất cứ thứ gì về những vật có giá trị cụ thể nào đó hoặc các món nữ trang mà có thể đang nằm bên trong ngôi nhà?”
Ngạc nhiên, tôi nói, “Không, hoàn toàn không. Ông ấy chỉ để lại bằng chúc thư mọi thứ cho tôi, nhưng không ai đề cập gì đến một món cụ thể nào cả.” Tôi lại quan sát anh một cách ngờ vực. “Nghĩa là sao? Có điều gì mà tôi không biết hay không?”
Anh nhún vai. “Ồ không -chỉ là tò mò thôi. Tôi thấy ông dường như không đề cập đến việc để lại ngôi nhà cho cô nên tôi tò mò không biết ông ấy thực sự đã nói gì.”
Cô có thấy bà ấy không? Trong khu vườn - cô có thấy bà ấy không? Bà ấy chỉ hiện hình trước những ai mà bà chấp thuận, cô biết đấy. Jack đang nhìn vào đôi tay tôi và anh rướn người qua rồi nắm lấy chúng.
“Lạnh như khối nước đá ấy.”
“Bản chất tôi là người lạnh lùng mà. Bàn tay và bàn chân tôi lúc nào chẳng lạnh.”
Anh nhướn một bên mày. “Cô có thực sự muốn tôi đáp lại về việc ấy không?”
Tôi cố giằng tay ra nhưng anh vẫn không buông. “Thế, cô nghĩ sao về việc này? Chúng ta có thể chung sức làm việc. Cô cho tôi được phép vào ngôi nhà, và tôi sẽ chia sẻ với cô bất cứ thông tin nào mà tôi có. Tôi cũng khá am tường công việc phục chế nhà cổ. Tôi từng giúp sửa chữa căn hộ tôi đang ở thuộc khu Pháp, và ba mẹ tôi cũng là từ điển sống cho bất cứ cái gì cổ xưa.”
“Thế còn lời hứa để tôi không bao giờ phải nhìn thấy bản mặt anh đâu rồi?”
“Tôi có nói thế không nhỉ?”
“Phải, anh có nói. Ðó là lý do vì sao tôi đồng ý ở lại ăn tối với anh đêm nay.”
Anh giả vờ suy nghĩ trong một phút. “Nhưng cô không thấy là nếu chúng ta hợp tác làm việc cùng nhau thì sẽ vui hơn nhiều à? Tôi sẽ thu thập được thông tin tôi cần cho quyển sách sắp viết, còn cô sẽ tìm được câu trả lời cho ông Vanderhorst.”
Ðám đàn ông ở quầy rượu lúc này đang reo hò và cười hét ỏm tỏi về câu chuyện tếu lâm mà một trong bọn họ vừa kể, và tôi liếc nhìn qua vai mình về hướng đám đông vừa rẽ ra rồi thấy có một người đàn ông trong bộ quân phục cũ kỹ đang ngồi. Một hố sâu sợ hãi bắt đầu hình thành sâu thẳm trong tôi.
Jack thả tay tôi ra rồi nhìn đồng hồ. “Bốn mươi lăm phút, Mellie. Thật sự tôi không có ý ép cô, nhưng tôi nghĩ cả hai chúng ta đều biết cô nên trả lời như thế nào.”
Tiếng cười giỡn từ quầy rượu đã bắt đầu quá ồn ào gần như không thể trò chuyện được nữa. Khi tôi nhìn lại đám đông ấy một lần nữa, tôi thấy người đàn ông trong trang phục quân nhân vừa cố đứng dậy nhưng lại ngã, kéo theo chiếc ghế quầy rượu đổ xuống cùng ông ta.
Tôi bật người quay lại nhìn Jack và quan sát người đàn ông quá tự tin, gần như ngạo nghễ, và quá ư là đẹp trai này, và bỗng nhiên trong trí tôi lại hiển hiện những dòng chữ đậm trong thư của ông Vanderhorst.
Nhưng chuyện không dừng ở đó, mặc dù ta đã không thể khám phá ra câu chuyện đằng sau việc này. Có lẽ số phận đã mang cháu đến trong đời ta giúp đưa sự thật ra ánh sáng để bà ấy có thể yên nghỉ sau những năm tháng qua. Cầu Chúa phù hộ cho cháu, Melanie thân mến. Ta đặt trọn niềm tin nơi cháu.
Tiếng vỡ loảng xoảng của thủy tinh khiến cả hai chúng tôi đều đứng bật dậy, và tôi thấy người đàn ông trong bộ quân phục lúc này đang cố gượng đứng dậy một lần nữa nhưng rõ ràng là ông ta đã không bám được vào quầy rượu, thế là ông ta lại trượt xuống sàn một lần nữa kéo theo vài chai bia trên quầy rượu theo mình.
Tôi nhìn chằm chằm vào ông ta, vào đầu tóc muối tiêu vẫn còn rất dày cùng bộ xương hàm rắn rỏi và sắc nét trên gương mặt lúc này đã bị rượu cồn làm cho mềm nhão ra như con dao cắm vào đất sét ướt, đồng thời cảm nhận được cú choáng quen thuộc vì xấu hổ lẫn cảm giác muốn buông xuôi giờ đây đang cắt ngang người tôi. Tôi bước đến quầy bar, Jack đi theo sau lưng tôi.
“Cô có nhất thiết phải dính vào vụ này không, Mellie? Tôi nghĩ cha này có đủ bạn bè giúp rồi.”
Tôi đứng cạnh người đàn ông ấy, nhìn vào vết bia lấm ướt và làm sẫm màu phần thân trước chiếc áo kaki mà ông đang mặc, trải dài nỗi ô nhục ra như cái chữ đỏ[2] trên ngực ông ấy. “Jack, anh làm ơn giúp đưa ông ấy ra xe anh trong khi tôi đi gọi cho ông Drayton và báo với ông ấy tôi sẽ ký giấy tờ nhé?”
[2] Thời xưa ở Âu Mỹ, phụ nữ ngoại tình sẽ bị sơn chữ “A” (Adultery - ngoại tình) màu đỏ thật to lên trước ngực áo và bắt đi diễu khắp nơi để hạ nhục.
Anh nhìn tôi với vẻ bối rối. “Cô biết người này à?”
Tôi quỳ xuống. “Jack Trenholm, đây là Ðại tá James Middleton. Ba à? Ðây là Jack Trenholm. Anh ấy sẽ đưa ba về nhà.”
Ba tôi nhìn hai đứa tôi, đôi mắt màu nâu lục giờ đây đã đỏ ngầu nhìn chằm chằm vào tôi. Ít ra thì ông ta vẫn còn chút tự trọng mà biết xấu hổ. Giọng của ông lè nhè, tiếng nọ xọ tiếng kia nghe như những miếng đô mi nô rơi lên bàn gỗ. “Ba xin lỗi, Melanie. Ba chỉ định uống một ly thôi.”
Jack đặt tay lên vai tôi. “Tôi sẽ lo việc này. Cô đi gọi điện thoại đi.” Anh lại phô diễn cái nụ cười quyến rũ đặc biệt ấy với tôi. “Bây giờ chúng ta đã là đối tác rồi, nhớ không?”
Tôi trợn mắt vờ như chán nản. “Tuyệt quá. Nhưng anh nhớ để cho ông ấy nôn mửa trước khi đưa ổng vào chiếc Porsche nhé.”
Tôi quay lưng về phía họ và bước ra ngoài, há miệng hít mạnh một hơi đầy phổi bầu không khí nhễ nhại của mùa hè Charleston đồng thời cố thở hắt cho ra hết những sự thất vọng và cả tuyệt vọng mà tôi đã mang canh cánh trong lòng trong suốt ba mươi ba năm qua. Rồi tôi lôi điện thoại di động ra khỏi ví và gọi đến số của ông Drayton.