15 Chương 15
Chúng tôi đã kéo cuộn được tấm thảm Aubusson trong phòng khách - và chẳng tìm thấy gì hấp dẫn bên dưới lớp gỗ sàn, mặc dù đã xem xét rất kỹ lưỡng - thế là chúng tôi mang nó đi sửa. Chúng tôi cũng đã tìm được nơi cất giữ tạm cho hầu hết đồ đạc trong phòng khách chính (ngoại trừ chiếc đồng hồ quả lắc), là một ngôi nhà vừa mới tân trang xong ở quận Ansonborough mà hiện giờ được mở thành viện bảo tàng tư gia. Sophie đưa một đồng nghiệp, cũng là chuyên gia bậc sau đại học về phục hồi nhà cổ của trường đại học Pennsylvania, đến để xem xét trần nhà, nơi chiếc đèn chùm đã nhảy xuống đất tự vẫn. Ðây cũng là anh chàng đã từng nhúng tay vào việc trùng tu trần nhà trong đại sảnh của tòa nhà Drayton Hall và đã đạt được một giải thưởng nào đó cho bài viết về vụ này.
Tôi thật ấn tượng khi xem tay ấy và một trong những học trò cấp thạc sĩ của Sophie lấy khuôn cho tấm huy hiệu trang trí trần nhà làm bằng vữa hồ hiện đang ở đấy để thay thế những mảnh vỡ, sử dụng cùng công nghệ và vật liệu đã từng được dùng để chế tạo đồ gốc. Tôi ngắm nhìn họ khoan một loạt lỗ nhỏ dọc theo những đường nứt hiện có, rồi họ tiêm vào đấy một loại hóa chất làm đầy nào đấy bằng những ống tiêm to đùng để ngăn ngừa hư hại thêm cũng như ngăn không cho những khoanh vữa trần to rơi xuống đầu những ai vô ý ở trong phòng.
Vốn nghiêng nhiều hơn về công tác bảo tồn hơn là bảo quản, Sophie chỉ muốn cứ để cho trần nhà giữ nguyên hiện trạng của nó sau khi đã xong việc sửa chữa mà không che đi những vết nứt hoặc sơn phủ lên những dấu vết của công việc này. Nhưng, tôi là một người môi giới bất động sản, mục tiêu của tôi là bán nhà càng được giá càng tốt. Và hầu như cũng chẳng ai muốn nhìn thấy đường nứt trên trần nhà, dù cho nó trông có ra vẻ nhà cổ đến đâu.
Nhưng cũng không đến nỗi là tôi không cho phép thỏa hiệp đâu, miễn là việc hợp lý. Tôi đã cho phép Sophie hỏi ý kiến các chuyên gia và dùng thạch cao thật, thay vì dùng tường giả cho hầu hết công tác trùng tu này. Nhưng tôi cũng giữ vững lập trường khi việc liên quan đến gỡ bỏ nhà bếp và các phòng tắm, cũng như làm thêm một phòng tắm cho phòng ngủ chính hiện thời. Nó nhìn tôi như thể tôi là gã khổng lồ đang tàn phá một ngôi làng đầy quả phụ và trẻ mồ côi - hay cách khác, theo lời nó, là không tôn trọng tầm nhìn của những người đã xây nên ngôi nhà này. Và vì nó không cho phép, tôi đã gánh lấy toàn bộ trách nhiệm khi bức tường đầu tiên giữa phòng ngủ của tôi và phòng kế bên bị đập bỏ để mở rộng diện tích và có chỗ để đặt đường ống, nhưng thậm chí bản thân tôi cũng cảm thấy một chút run động vì cảm giác mất mát nào đó khi nhìn đám bụi thạch cao nổ tung vào căn phòng, từng vốc bụi cứ rơi lả tả giống như ma.
Ðể xoa dịu Sophie, tôi đã tuân thủ đúng theo hướng dẫn của nó về những thủ tục vốn phải chính xác một cách chi li tỉ mẩn về việc gỡ giấy dán tường và cạo sơn, tức là phải dùng những lưỡi dao cạo tí hon đến không ngờ cùng những con dao kỳ quặc, dù cho chúng có làm mất bao nhiêu thời gian đi nữa. Khi tôi đang quỳ gối bên trước lò sưởi trong phòng khách, cắm con dao bé tí vào lớp sơn dễ phải dày đến mười hai lớp để cố phơi ra cái gì đấy trông giống như một cây mít khổng lồ thì Jack bước vào phòng, giơ con dao nhỏ của anh lên cao.
“Sophie bảo là cô cần được phụ giúp.”
“Tôi bắt đầu nghĩ rằng dùng một cái rìu có lẽ sẽ hiệu quả hơn là dùng con dao cào ngu ngốc này. Nãy giờ tôi ngồi đây hơn cả tiếng đồng hồ mà chỉ cạo đúng một chỗ, và tôi đã cạo được toàn bộ những lớp sơn bằng một khoảnh to đúng bằng quả bóng golf đây này.”
Chúng tôi đứng cạnh nhau và xem xét cái lò sưởi xưa. Bản thân tôi cũng phải công nhận những họa tiết trên ấy đúng là một tác phẩm nghệ thuật và không phải là thứ mà tôi đã từng thấy trong những ngôi nhà hiện đại bao giờ, dù cho chúng đắt tiền đến đâu. Những chiếc cột được tạo rãnh tỉ mỉ công phu được cặp vào những họa tiết hình hoa hồng và dựng đứng hai bên lò sưởi để chịu lực cho những món xung quanh, bên trên đó có những con cáo và chó săn ẩn hiện quanh một loạt những cây mít. Sự ngưỡng mộ của tôi có lẽ sẽ còn cao hơn nếu tôi không phải là người chịu trách nhiệm cho việc cạo bỏ những lớp sơn giữa những chiếc lá trên cây, và ngay lúc này nó đã không thể hiện được ý đồ nghệ thuật ban đầu của nghệ nhân đã tạo nên nó.
Jack đứng cạnh và xem xét thành quả lao động của tôi. “Làm tốt lắm, Mellie ạ. Với tốc độ này chúng ta sẽ làm xong chiếc lò sưởi này đâu đấy trong tháng mười hai tới. Ít ra cô cũng sẽ có rất nhiều kinh nghiệm. Với lại, trong nhà có bao nhiêu cái lò sưởi nhỉ - ba cái?”
“Sáu,” tôi nói và bỗng nhiên cảm thấy hơi chóng mặt.
Jack bước đến đứng ở phía bên kia lò sưởi và giơ con dao lên. Hoảng hồn, tôi giơ tay lên, tưởng tượng ra sự kinh dị của Sophie nếu lỡ một mảnh thân cây hoặc cái đầu chó săn bị xén mất. “Anh có biết cách dùng vật ấy không?”
Anh lại nhướn một bên mày với cái nhìn tinh quái ấy vốn luôn gây bất ngờ cho huyết quản của tôi. “Tôi hơi bị thạo với các loại dụng cụ đồ nghề đấy nhé.”
Tôi ngưng tay và ném cho anh cái nhìn khinh khỉnh.
“Thôi đừng có nghĩ bậy nữa được không Mellie. Ý tôi là hiện tôi đang sống trong một nhà kho chứa gạo xây từ những năm một tám năm mươi và được làm lại thành căn hộ, vốn được tôi tự mình sửa chữa lại, nên tôi cũng quen với việc cạo sơn những cái lò sưởi xưa đấy.”
Tôi quay lại tập trung vào công việc, cảm thấy ngượng lên đến tận chân tóc. “Tôi biết ý anh muốn nói gì mà Jack. Chỉ là anh vẫn chưa đủ lớn nên mới nghĩ khác đi thôi.”
Anh thầm cười lục cục trong họng khiến tôi cũng phải bật cười, nhưng rồi tôi cố tập trung vào lớp sơn màu xanh lá cây xấu xí kia.
Chúng tôi cùng làm việc một cách thân thiện một hồi lâu trong yên lặng, điều duy nhất khiến chúng tôi phải càu nhàu phá vỡ yên lặng là khi chúng tôi gặp phải một cục sơn cứng đầu nào đó và tiếng Sophie ở dưới nhà đang hướng dẫn Chad về cách chà nhám hàng lan can bằng tay.
Chúng tôi đang cạo sơn trên bề mặt nhẵn của mặt lò sưởi, xem như là phần dễ nhất, và chúng tôi đứng khá gần nhau trong khi đang làm việc đối diện nhau. Sau sự vụ ở chân cầu thang lần trước, khi tôi và anh nằm giáp mặt vào nhau, thì tôi bỗng cảm thấy cực kỳ nhạy cảm mỗi khi anh có mặt, giống như tôi là chiếc máy chụp ảnh hồng ngoại còn anh là nguồn nhiệt. Nhờ Jack mà tôi cứ liên tục bị đứt tay nhiều lần vì con dao quái quỷ ấy, và tôi cũng luôn tự nhắc nhở mình rằng cảm giác đau ở ngón tay cái của mình hoàn toàn là do lỗi của anh ta.
“Còn cú điện thoại nào nữa không?” Jack tạm ngưng và đứng cạnh tôi, nhưng tôi không nhìn lên.
Trong một thoáng, tôi rất muốn nói dối, nhưng rồi nghĩ rằng mình đã nói dối khá nhiều rồi. “À, thật ra, vẫn còn. Bây giờ thì khoảng hai hoặc ba cú mỗi đêm. Ðêm qua tôi đã quyết định tháo dây điện thoại trước khi đi ngủ.”
“Thế nếu lỡ có trường hợp khẩn cấp thì sao?”
Tôi rất thích mỗi khi nghe âm hưởng của lo lắng trong giọng nói của anh. Tôi cảm thấy ít nhiều được nguôi ngoai, vì cảm giác có sự hiện diện của anh trong nhà vào ban đêm khiến tôi không còn cảm thấy sợ hãi thường trực. Có những thứ trong bóng tối - những thứ mà tôi chẳng muốn thấy. Và biết rằng Jack đang ở gần giúp tôi ngăn không cho chúng lại gần mình. Dĩ nhiên là tôi không hề muốn cho anh biết điều đó.
“Tôi để điện thoại di động trên bàn sát cạnh mình trong trường hợp tôi cần gọi ai đó vào nửa đêm. Tôi để chế độ rung lỡ bọn chúng lại gọi cho tôi vào số ấy.”
“Vẫn không đoán được ai đã làm việc ấy?”
Tôi lắc đầu. “Không, việc này thật lạ vì ngày nay tôi nghĩ bất cứ số nào cũng có thể bị truy ra. Có thể nếu tôi gọi cảnh sát vào cuộc thì họ sẽ tìm ra, nhưng cũng có thể chỉ là một đứa nhóc nào đấy, và tôi chẳng muốn đời nó tiêu tan chỉ vì một cú điện thoại phá bĩnh như thế này.”
Ðiều này thật ra chỉ đúng một nửa thôi. Bởi vì những cú điện thoại này bắt đầu từ tuần trước, và cũng chẳng có gì ghê gớm ngoài việc nó làm tôi bực mình và cứ khiến tôi phải thức giấc. Người đàn ông bên kia đầu dây cứ ngụy trang giọng nói của mình và gọi tìm tôi và rồi cứ thở dốc cho đến khi tôi cúp máy. Danh tính người gọi hiển thị trên điện thoại của tôi chỉ đơn giản là “số điện thoại không có thực.” Tôi đã xao lãng không kể cho Jack nghe về cú điện thoại đêm qua - nó reo ngay sau khi tôi vừa giật dây điện thoại ra khỏi tường.
Khi ấy tôi vừa mơ màng chìm vào giấc ngủ thì điện thoại reo vang. Trong cơn nửa mê nửa tỉnh, tôi quên mất rằng điện thoại đã không còn nối vào tường; nếu không thì có lẽ tôi sẽ chẳng thèm trả lời. Khi nó reo đến lần thứ ba, tôi nhấc ống nghe, sẵn sàng phun ra vài từ đệm tục tĩu vốn chưa bật ra khỏi môi tôi bao giờ. Nhưng hơi thở lần ngày nghe khác hơn, nhẹ nhàng hơn. Nghe có vẻ như là một người đàn bà. Và khi tôi nghe giọng nói ấy, tôi ngã quỵ xuống gối, tay chân tôi mềm nhũn ra như bị rút hết xương. “Chào cháu, Tí Nị,” giọng nói ấy nghe run run ở bên kia đầu dây điện thoại, “Bà nhớ cháu lắm.”
Chỉ có một người duy nhất đã từng gọi tôi là “Tí Nị,” và người ấy mất đã gần ba mươi bốn năm qua. “Bà đấy ư?” tôi thì thầm, hai tay tôi lạnh cóng và ôm chặt lấy ống nghe.
“Cháu phải ghé sang chơi, Tí Nị à. Ðến ngồi chơi trong vườn nhà bà và uống trà đường như trước đây cháu đã từng. Một ngày nào đó nó sẽ là của cháu, cháu biết rồi đấy. Thế nên cháu có thể ghé chơi và xem cháu còn ưa thích việc ấy nữa hay không.”
Chiếc ống nghe đập mạnh vào tai tôi vì bàn tay cầm nó giờ đây đang run lẩy bẩy. “Bà ơi?” tôi lại nói, đôi môi bỗng trở nên khô nẻ.
“Tí Nị à, cháu cần phải gọi cho mẹ cháu.” Ðường dây điện thoại lúc này bắt đầu bị nhiễu, rất khó nghe. Khi tôi lại nghe tiếng của bà, tôi áp chặt tai vào ống nghe, giọng nói của bà nghe có vẻ xa xăm dần. “Mẹ cháu nhớ cháu nhiều.” Giọng nói nhạt dần đi và đường dây bắt đầu yên ắng, không để lại gì ngoài không gian tĩnh mịch.
Tôi quẳng điện thoại vào góc phòng, rồi nằm rúc dưới những lớp mền cho đến khi bình minh bắt đầu xuyên qua những tấm mành cửa sổ.
Jack nhấc cánh tay lên và cạ vào đầu để phủi đi một mảnh sơn to trên ấy. “Nếu cô cho phép, tôi sẽ đặt một cái điện thoại trong phòng tôi để nếu thằng phá bĩnh ấy lại gọi thì nó sẽ biết rằng cô không ở một mình. Có lẽ mình cũng chỉ cần làm thế thôi để cho nó nản.”
“Cám ơn,” tôi nói và cũng hy vọng Jack sẽ không nhận được cú điện thoại nào từ bà tôi. Thậm chí tôi cũng không biết phải giải thích như thế nào về việc ấy nữa.
Chúng tôi lại quay trở về với công việc cạo vét, và tôi lén liếc nhìn Jack, tự hỏi vì sao anh ta bỗng trở nên lặng lẽ đến thế. Tôi thấy xương hàm anh cứ nhấp nhô theo nhịp cạo và tôi biết anh đang cố hết sức để giữ yên lặng. Cuối cùng, anh cũng nói, “Hắn đã hôn cô chưa?”
“Ai? Ðại tướng Lee? Tôi không cho nó được ở gần mình.”
Jack cười mỉa. “Thế thì, tôi đoán đó là ‘chưa’ cho câu trả lời vậy.”
“Làm sao anh biết anh ấy chưa hôn tôi?”
Anh đối diện với tôi và tôi bắt gặp cái nhìn của anh. “Giờ thì tôi đã biết rồi, phải không?”
Quá bối rối không trả lời được, tôi cắm con dao của mình vào một lớp cao su khác, mường tượng ra gương mặt của Jack trong khi tôi róc lớp sơn ra.
“Cô chẳng thấy việc ấy hơi kỳ cục à, Mellie? Cô đã trải qua những ngày cuối tuần ở ngôi nhà biển của hắn, đã đi ăn tối hoặc xem hát hoặc đi đâu khác nữa khoảng ba lần trong một tuần, và rồi gần đây thì đi chơi với hắn cũng cỡ cách mỗi tối một lần. Hoặc là hắn đồng tính, hoặc là có việc gì khác.”
Tôi thả con dao xuống và nhìn anh. “Làm sao việc ấy lại khiến anh ta là người đồng tính hả?”
Jack quay lại nhìn tôi, đôi mắt anh trông tối hơn bình thường. “Bởi vì nếu một gã đã ở bên cạnh cô nhiều lần như thế và vẫn chưa chịu hôn cô, thì chắc chắn phải có một lời giải thích nào khác.”
Tôi mở miệng định biện hộ cho mình, rồi cuối cùng chỉ có thể lắp bắp khi tôi nhận ra những gì Jack thật sự đang nói. Tôi bậm môi lại và tập trung nhặt lên con dao nhỏ mà Sophie đã đưa cho tôi để khều lớp sơn cũ ra khỏi những lớp điêu khắc phức tạp của những chiếc lá mít.
Jack vẫn không thôi nhìn tôi. Rồi anh nói một cách mềm mỏng, “Thế thì, tôi đoán là phải có việc gì khác.”
Tôi không thể quyết định mình nên cảm thấy hãnh diện hay nên cáu giận, thế là tôi cứ im lặng.
“Cô đã đưa hắn đi xem nhiều ngôi nhà rồi chứ?”
“Một vài. Nhưng mà không có nhà nào hợp với yêu cầu của anh ấy,” tôi nói, chợt nhớ lại sự quan tâm thoáng qua của Marc đến những ngôi nhà mà chúng tôi đã đi xem.
“Nhớ cho tôi biết nếu hắn có bao giờ quyết định mua nhà. Tôi dám cá bằng tiền là hắn sẽ chẳng mua cái gì đâu.”
“Rồi chúng ta sẽ thấy,” tôi nói, hất cằm lên.
“Ừ, tôi cũng cho là thế,” Jack nói và đâm phập con dao trong tay vào mặt lò sưởi.
Chúng tôi tiếp tục im lặng một hồi trước khi tôi chợt nhớ ra điều tôi định hỏi trong những ngày gần đây. “Thế vụ viết lách của anh đã đến đâu rồi?”
“Chậm lắm. Rất chậm, cám ơn cô đã hỏi. Tôi đã nghiên cứu rất nhiều về gia tộc Vanderhorst, một gia tộc cực kỳ thú vị, nếu không muốn nói là rất tỏa sáng. Dòng dõi quý tộc thứ thiệt của Charleston - họ đã từng ở đây từ khi nó vẫn còn được gọi là Charles Towne. Ðã gửi từng đứa con trai của mình ra mặt trận trong từng cuộc chiến kể từ thời Cách mạng chống đế quốc Anh. Nhưng vẫn chưa có gì mới mà bọn mình chưa biết về vụ mất tích của Louisa Vanderhorst vào năm một chín ba mươi. Mặc dù vậy, tôi có tìm ra bằng chứng rằng Robert Vanderhorst và ông nội của cô đã từng là bạn rất thân và cùng học chung trường luật. Tôi tin rằng ông Gus là phù rể của ông Robert trong đám cưới ông ấy.”
“Tôi có biết - bà Houlihan có cho tôi xem những bức ảnh. Nó được lồng trong khung hình trong phòng khách trên lầu nếu anh muốn xem nó. Nó cũng chẳng có ý nghĩa gì, dĩ nhiên rồi, ngoại trừ việc tôi phải cám ơn ông nội Gus của tôi đã tạo điều kiện cho tôi được lâm vào hoàn cảnh khó xử như thế này. Nếu ông ấy không hề quen biết gì với ông Vanderhort, điều này sẽ không bao giờ xảy ra.”
Jack nhướn một bên mày nhưng không nói gì.
Tôi giật mạnh một mảnh sơn ra khỏi tóc. “Anh có tìm thấy gì thú vị trong chồng giấy tờ nằm trên bàn trong căn gác mái hay không?”
“Vẫn đang soạn chúng đây. Tôi có phát hiện ra rằng cuối cùng tiểu bang đã áp quyền sở hữu đồn điền Magnolia Ridge vì chủ cũ không đóng thuế điền sản. Phần thú vị là khi ấy ông Vanderhorst cha vẫn còn là một người giàu có, thậm chí trong suốt thời Ðại khủng hoảng - bản thân việc này cũng là một sự kiện thú vị - nhưng ông ấy đã quyết định không đóng thuế. Cứ như thể ông ấy chẳng còn màng gì đến nó nữa sau khi vợ ông ấy qua đời.”
“Như thể ông ấy cũng chẳng màng gì đến ngôi nhà này nữa, cứ nhìn vào hiện trạng của căn bếp và đường ống nước thì thấy. Tôi nghĩ họ chẳng thay đổi gì cả kể từ những năm hai mươi.”
Jack cười khùng khục. “Cứ nhìn vào vòi nước đá lạnh mà tôi phải tắm sáng nay, thì phải nói rằng cô nói đúng. À, nói về vụ vòi sen, cô để quên áo ngực mắc trên sào treo màn tắm. Tôi vẫn để nó ở đó và cố không làm nó bị ướt.”
Tôi nhai bên trong hai má mình để che giấu sự xấu hổ. Ít ra anh ta cũng đã không đùa cợt gì về kích cỡ bé xíu của nó. “Cám ơn anh đã cho tôi biết.”
“Không có gì,” anh nói, và tôi có thể nghe thấy tiếng cười trong giọng nói ấy. “Ban đầu tôi tưởng nó là cái ná nhưng khi nhìn kỹ lại thì thấy có hai cái cúp be bé.”
“Thôi đủ rồi, Jack.”
“Dạ,” anh nói rồi cố ra vẻ tập trung vào công việc cạo vét sơn cũ.
Chúng tôi lại cùng nhau làm việc thêm chừng một tiếng đồng hồ gì đó, câu chuyện của chúng tôi xoay quanh đủ thứ, từ tin tức thời sự cho đến những chuyện nhảm nhí khiến tôi suýt nữa thì cảm thấy vui vẻ cho đến khi tôi nhận ra rằng khi làm việc chung sức như thế này, hai đứa chúng tôi đã gỡ được một khoảnh sơn có kích cỡ tổng cộng bằng một cái đĩa ăn tối. Jack thảy con dao xuống sàn, bàn tay gạt mồ hôi trên trán. Hệ thống máy lạnh trung tâm vẫn chưa được lắp đặt mà phải chờ đến tuần sau, do đó chúng tôi đặt quạt máy khắp nơi trên sàn, nhưng chúng chẳng giúp ích gì ngoại trừ việc vờn hơi nóng trên da mình. “Tôi có ý kiến này. Sẽ sớm quay lại ngay.”
Anh quay lại cỡ năm phút sau đó, tay lăm le một cái máy sấy cầm tay. “Tôi lấy cái này từ ba cô đấy. Ông ấy đang đi học vài lớp gì đấy ở Home Depot[8], và họ bảo ông ấy món này có thể giúp cho vài dự án ở đây. Sophie đã xem qua một lần và bảo ông ấy cất nó đi, nên cô phải hứa với tôi là không cho Sophie biết về vụ này được chứ. Cô nàng thà mất cả mười ngón tay hơn là hạ thấp tiêu chuẩn xuống để dùng các phương pháp hiện đại, nhưng tôi nghĩ đây là nhà của cô mà, đúng không?”
[8] Chuỗi cửa hàng vật liệu xây dựng trên khắp nước Mỹ.
Không nghĩ ngợi đến một giây, tôi thả con dao xuống. “Ðóng cửa và khóa trái lại ngay.”
Jack nhẹ nhàng đóng cửa lại, xoay chìa khóa trong ổ cho đến khi nó kêu đánh tách. “Nếu cô ta có gõ cửa, bọn mình có thể vờ như đang chơi trò vật lộn khỏa thân.”
Tôi chống nạnh. “Trong trường hợp ấy, tôi thà cho nó biết là chúng ta ăn gian.”
Anh cười tươi và bước đến mặt lò sưởi. “Và nhìn này - có một cái ổ điện ngay sát bên lò sưởi. Rõ ràng là để phục vụ cho mục đích này mà.” Rồi anh cắm điện vào cái máy sấy và bật lên, lắng nghe tiếng kêu vù vù đầy thỏa mãn của cái động cơ bé nhỏ ấy. “Cô sẽ làm gì nếu không có tôi nào?” anh hỏi.
“Rưới một thùng đầy xăng khắp nhà và bật diêm quẹt lên.”
“Thế thì thật mừng là tôi đã ở đây.”
“Sao cũng được,” tôi nói và ngắm lớp sơn dẻo và dầy đang bong ra và cuộn lại bên dưới cái máy sấy. “Nhưng tôi vẫn cần phải cạo sơn bằng tay vòng quanh những cái lá mắc dịch ấy.”
“Ờ thì thế, nhưng đó là nơi mình có niềm vui công việc ấy chứ.”
Tôi trợn tròn mắt, nhưng chỉ cảm thấy phấn khích nửa vời. Tôi sẽ chẳng bao giờ thú nhận điều này với anh ta, nhưng quả thật khi được nhìn tác phẩm nghệ thuật chạm khắc bằng tay của một nghệ nhân trên trăm năm về trước giờ đây được sống lại sau khi gỡ bỏ những lớp sơn kia đi thì thật phấn khởi vô cùng.
Tôi chẳng nhiệt tình lắm khi phải mang con dao nhỏ quay lại làm việc với những phần hoa văn thậm chí còn phức tạp hơn, trong khi Jack có nhiệm vụ vốn rất dễ làm nản tinh thần là quét cái máy sấy trên những bề mặt sơn và ngắm chúng cuộn lại rồi bong ra. Anh tập trung vào những điểm nơi mà chiếc lò sưởi được gắn vào tường và những chỗ nào có lớp sơn dầy để cho hai bề mặt không bị phân cách. Anh đang ngồi xổm và quét đi lớp sơn đã tróc ra bằng một chiếc cọ sơn sạch và tắt máy sấy. “Cái gì thế này?” anh hỏi.
Tôi ngồi xổm xuống bên cạnh anh và nhìn vào đường nứt lúc này đã được phơi ra giữa bức tường và mặt lò sưởi và thấy vật gì đó trông giống như một miếng vải vụn hình chữ nhật. “Chờ đã,” tôi nói và đi ngang qua phòng, đến chỗ có đặt chiếc radio cũ với hai cần ăng-ten dài trên sàn, tháo dây điện để tạo thêm chỗ trống cho những chiếc quạt, và mang nó đặt trước mặt lò sưởi. Với một cần ăng-ten, tôi nhét nó vào đường nứt và khều miếng vải vụn ra sát mép, rồi Jack dùng móng tay cạy nó ra khỏi chốn giam cầm ấy.
“Trông giống như một hình mẫu thêu mũi chữ thập,” anh nói và trải mỏng nó lên đầu gối. Ðó là miếng vải lanh rất cũ, đã ngả vàng và giòn khô nhưng thật đáng ngạc nhiên là nó vẫn còn nguyên trạng so với tuổi đời của nó, lớp chỉ thêu bằng lụa đã bạc màu còn màu sắc thì không thể xác định được. Ở chính giữa miếng vải có thêu một hình mẫu cực kỳ chính xác của ngôi nhà này, và bao quanh ngôi nhà là những khung cảnh đồng quê tinh xảo với những con thú, cây cỏ, hoa trồng trong chậu, và đủ loại hoa văn uốn lượn như thể người thêu bức tranh đã quyết định thêu vào đấy từng loại hoa văn mà cô ta đã học được.
Những từ Emily Vanderhorst, 13 tuổi, 1849 được thêu một cách trang nhã bằng chỉ màu vàng nhạt ở góc cuối của bức tranh thêu, bao quanh nó là những dây leo gợn sóng, với những con ong be bé đang bay vò vò quanh tổ ong được thêu dọc mạn sườn của bài thơ bên trên tên tác giả. Tôi đọc to vần thơ lên: “Ðừng viện đến những hồn ma, cũng đừng làm mình vẩn đục khi cố đi tìm chúng. Ta là Ðức Chúa trời của ngươi. Kinh thánh 19:31.”
Tôi nhìn lên bức tranh thêu và bắt gặp ánh mắt của Jack. Nhướn một bên mày, anh nói, “Tôi thì lại nghĩ lẽ ra họ chỉ trích dẫn Kinh thánh chung chung trên những bức tranh thêu mà thôi.”
Tôi gật đầu, mắt tôi lại hướng về bức thêu, như thể tôi sợ mình sẽ lỡ mất cái gì đó nếu tôi nhìn đi nơi khác. “Thông thường thì như thế. Thật lạ vì bức này lại quá... quá khác biệt nhỉ.”
Tôi có cảm giác Jack đang nhìn tôi. “Như thể cô ấy bị quở phạt và phải viết nó ra vậy, phải không? Giống như khi thầy giáo bắt học trò viết ‘Em sẽ không nói chuyện trong lớp’ một trăm lần trên bảng đen. Giống như cô Emily tội nghiệp đây phải thêu câu trích dẫn Kinh thánh này để cô ta sẽ nhớ đến nó.” Giọng của tôi như nghẹt lại trong vòm họng.
“Việc này khiến tôi nghĩ rằng có thể Emily đã nói gì đấy về việc nhìn thấy ma khiến ba mẹ cô bé nổi giận.” Jack ngưng lại. “Cô biết không, người ta hay nói rằng có một số ngôi nhà là những nơi thu hút những linh hồn chưa được siêu thoát đấy.”
Tôi nghĩ đến Louisa và hương hoa hồng của bà ấy, cùng với hình hài luôn đi kèm mùi thối rữa mà tôi đã thấy nơi cửa sổ và đã cảm nhận trên lưng mình. Tôi chợt nhớ đến hình hài lướt qua của một người đàn ông có tuổi trong bộ quân phục phe miền Nam, cậu bé trên chiếc xích đu, và một cô gái vị thành niên bước đi một cách nhẹ nhàng quý phái qua hành lang trên lầu, rồi biến mất vào một khung cửa mà chẳng còn tồn tại ở đấy nữa. Và cả người phụ nữ hay đi tìm Jack cùng với những giọng nói mà tôi có thể nghe thấy nếu tôi tập trung lắng nghe. Tôi có đọc ở đâu đấy một lần rằng việc sửa chữa tân trang nhà làm kinh động đến những linh hồn già cỗi, khiến họ phải bước ra từ nơi ẩn nấp của họ để xem việc gì đang xảy ra hoặc để lên tiếng phản đối. Hoặc cũng có thể những linh hồn này đã ở đây từ đời nào, chỉ chờ được bước ra và gặp gỡ những con người giống như tôi.
“Thật sao?” Tôi trả lời, giọng của tôi nghe không được tự nhiên.
“Và một số người cũng như thế. Vật thu hút mà.”
“Chẳng phải là thế sao?” Tôi hỏi, mắt tôi cố tập trung vào tấm vải lanh đã úa vàng. “Tôi chưa nghe đến vụ đó bao giờ.” Tôi nuốt ực. “Jack này, tôi nghĩ có lẽ anh đọc quá nhiều về những việc như thế này đấy. Có lẽ Emily chỉ... khác người thôi.” Nhẹ nhàng, tôi cầm lên tấm vải lụa. “Chẳng hiểu tại sao nó lại nằm sau cái mặt lò sưởi như thế này. Có lẽ mẹ cô bé đã treo lên phía trên để trưng, và rồi vô tình nó rơi xuống phía sau lò sưởi và bị quên lãng.”
“Hoặc có thể là,” Jack nói thêm, “mẹ cô bé cố tình làm mất nó.”
Cuối cùng, tôi cũng nhìn anh. “Ý anh là sao?”
“Khi tôi còn nhỏ, tôi có một cuốn sách ưa thích nhất và luôn bắt mẹ đọc cho tôi nghe trước giờ đi ngủ ít nhất là mười sáu lần mỗi đêm. Trong đấy có rất nhiều nhân vật, nên khi bà đọc sách, bà phải bắt chước giọng của tất cả bọn chúng. Chắc chắn bà đã phải kiệt sức về việc ấy.” Anh nhìn xuống bức tranh thêu một lúc, mỉm cười với chính mình. “Dù sao thì, một ngày nọ, cuốn sách bỗng mất tích. Bà giúp tôi đi tìm và tìm mãi cuốn sách ấy, nhưng chúng tôi chẳng bao giờ tìm ra được. Cho đến cách đây chỉ khoảng hai năm thì bà mới chịu thú nhận với tôi là bà đã giấu nó dưới đáy chiếc rương làm bằng gỗ cây tuyết tùng của bà ấy, là nơi tôi sẽ không bao giờ tìm ra, bởi vì bà nghĩ có lẽ bà sẽ phát điên lên mất nếu phải đọc cuốn sách ấy lần nữa. Bà chỉ để dành nó để sau này tôi có thể đưa cho con của mình để rồi có khả năng tôi lại bị bắt phải đọc nó cho đến khi ngán đến tận cổ luôn.”
Tôi cười vang. “Phải, tôi có thể thấy rằng mẹ anh sẽ làm việc ấy.” Tôi nhìn chăm chăm vào tấm vải, rồi bất chợt trở nên trang nghiêm. “Có lẽ mẹ của Emily nghĩ rằng Emily bị phạt đã đủ, nên bà bỏ nó đi.” Ðứng dậy, tôi giơ tấm vải thêu ra ánh sáng, làm lộ rõ những đường nét thêu thật phức tạp.
“Cảm giác cứ như đang ôm một phần lịch sử trong tay ấy nhỉ?” Jack nói.
Tôi lặng người, lại nghe tiếng của một ông già đang nói gần như chính xác những từ như thế - những từ mà đến bây giờ tôi vẫn nhớ, mặc dù khi mới nghe lần đầu tôi chẳng thấy nó có ý nghĩa gì với tôi cả. “Ngôi nhà này không chỉ được xây bằng những viên gạch, vữa hồ, và gỗ. Nó là một sự gắn kết với quá khứ và với những tiền nhân đã quá cố. Nó là những kỷ niệm và nó mang đến cảm giác ấm áp của gia đình. Nó là một ngôi nhà mà bên trong đã chứng kiến sự chào đời của những đứa trẻ và cái chết của những người già, còn bên ngoài, nó chứng kiến sự thay đổi của thế giới. Nó là một mảnh lịch sử mà ta có thể nắm giữ trong tay.”
Tôi thả lỏng hai cánh tay xuống, cảm giác như vừa nhìn thấy thêm một con ma. Tôi ngoảnh mặt đi và nói, “Ðể tôi mang cái này cho Sophie xem và nhờ nó tìm người lồng khung bức tranh thêu này. Rồi sau đó tôi sẽ mang treo nó trong đại sảnh - những tay mua nhà cổ luôn luôn thích những thứ hào nhoáng gợi nhớ về thời xưa như thế trong nhà mình.”
Tôi đi được giữa chừng thì có người gõ cửa. Tôi dừng lại. “Ai đấy?”
“Chỉ là ba đây mà.”
Tôi liếc nhìn Jack đầy nhẹ nhõm, rồi mở khóa cửa. Ba tôi đứng bên kia khung cửa, tay cầm một cái máy sấy khác. Tôi mỉm cười khi thấy nó và gần như kéo ba tôi vào phòng rồi khóa trái cửa lại.
“Ba nghĩ con có thể dùng hai cái. Có bao nhiêu cái lò sưởi trong nhà nhỉ? Ba cái?”
“Sáu,” tôi nói, và cầm lấy cái máy sấy từ tay ông. “Cái này chắc chắn sẽ rất được việc. Cám ơn ba.”
Ông nhìn vào cánh cửa đã bị khóa sau lưng mình. “Có phải ba hơi vượt quá giới hạn nếu ba hỏi tại sao phải khóa cửa không?”
Câu hỏi này được dành cho tôi, nhưng Jack lại trả lời. “Không đâu, thưa đại tá. Không thể bảo đảm rằng bọn cháu sẽ thành thật trong câu trả lời, nhưng dĩ nhiên là ông có thể hỏi ạ.”
Ba tôi gật đầu. “Ừ hử. Hai đứa đang giấu không cho Sophie biết phải không? Không phải là ba trách hai đứa đâu. Sophie đã nói với ba vài lần về việc ba sử dụng phân bón có hóa chất nhân tạo trong vườn rồi đấy. Nó không muốn ba dùng bất cứ thứ gì chưa có mặt từ thời ngôi nhà được xây.”
“Thế cho nên về cơ bản mình chỉ còn có thể dùng nước và phân ngựa thôi,” Jack nói.
“Ðúng thế.”
Cả hai đều cười to trong khi tôi nhìn kỹ ba tôi, gương mặt và hai cánh tay ông ngả màu nâu đồng vì làm việc ngoài vườn, cái nhìn của ông đầy điềm tĩnh. Tôi cứ giữ cho mình ở đúng vị trí hiện tại, chẳng muốn tiến lên hay lùi lại. Ðã quá sợ nó sẽ không kéo dài. Tôi quay đi. “Con phải mang cái này cho Sophie xem. Tí nữa con quay lại.”
“Thật ra, Melanie này, để ba đi ra ngoài với con. Ba muốn cho con xem một thứ ba vừa tìm được trong vườn.”
“Cái gì - lại một bụi cây mà ba không biết tên à? Ba hỏi nhầm người rồi.”
Ông cười nghiêng ngả. “Ừa, ba biết. Ba chưa bao giờ từng ở cạnh bên để dạy con về làm vườn phải không?”
“Không, ba ạ.” Tôi nhìn thấy sự lưỡng lự trong mắt ông nên thôi không nói gì nữa. Vậy thì, hòa hoãn thôi, tôi nghĩ. Tạm thời là thế.
“Thực ra đó là cái đài phun nước. Ba dọn sạch cỏ dại ở dưới bệ của nó, và ba thấy có cái gì được khắc vào đó trông khá thú vị. Nó chẳng giống bất cứ yếu tố kiến trúc nào mà ba từng được học trong lớp ban đêm của ba ở trường đại học cả.” Ông liếc nhìn lên rồi nhún vai. “Chỉ là vài việc mà Sophie đề nghị ba làm để giúp cho việc trùng tu ngôi nhà này thôi. Dù sao thì, ba cũng muốn con đến đó, để xem nó có ý nghĩa gì với con hay không.” Ông liếc nhìn về Jack, lúc này đang đứng sau tôi. “Tôi cũng muốn cậu đến xem luôn.”
“Cháu sẽ đi theo ngay,” Jack nói và giấu những cái máy sấy bên dưới cái ghế, rồi theo chúng tôi ra ngoài.
Khu vườn đã hoàn toàn được lột xác. Những bụi và luống cây vốn không phải một phần của thiết kế ban đầu cho khu vườn đều đã được dọn sạch, lối đi lát đá đã được thay bằng những viên gạch xưa để tạo thành những lối đi uốn lượn xuyên suốt khu vườn. Những khoảnh đất nhỏ thật tươi sáng trồng hoa hồng noisett và hoa trà lúc này đã bò dọc khắp đường viền của ngôi nhà, còn những luống đất mới giờ đã nhú đầy cây lá xanh mơn mởn và đất mới xới thật tơi xốp.
Tôi cảm thấy có lỗi vì đã không bỏ thời gian đi ra vườn để xem thành quả lao động đầy công sức của ông. Tôi chưa bao giờ có khái niệm rằng ông ấy có thể tạo được thứ gì đẹp đẽ đến thế này. Thật tràn đầy sức sống. “Tuyệt quá, ba ạ. Thật xứng được đưa vào tạp chí làm vườn đấy.”
Ông ngẩng cao cằm, giống như một đứa trẻ khoác lác. “Ba mừng vì con thích khu vườn ba làm, Melanie ạ. Ba đã có nhiều niềm vui trong việc này. Nhưng hãy qua đây này - đây là cái mà ba muốn con xem đây.”
Tôi có cảm giác có sự di chuyển nào đó ở góc xa khu vườn và đưa mắt nhìn về phía cây sồi già. Người thiếu phụ lại có mặt ở đó và cậu bé con ngồi sát cạnh bà ấy, chiếc xích đu vẫn không đung đưa. Cả hai đều nhìn tôi đầy vẻ chờ đợi.
“Cô có sao không đấy?” Jack đã dừng lại sát bên tôi trên lối đi.
“Phải, tôi không sao,” tôi nói, cố nhìn đi nơi khác. “Chỉ ngắm nhìn cây sồi thôi.”
Anh gật đầu và chờ tôi đi xa hơn trên lối đi rồi mới đi theo tôi. Tôi hít một hơi mạnh khi chúng tôi bắt kịp ba tôi, cảm thấy kinh ngạc vô cùng rằng có thể nào đây chính là khu vườn mà tôi đã thấy trong lần đầu đến đây. Vẫn chưa có nước chảy ra từ đài phun - và sẽ tiếp tục không có nước cho đến khi chúng tôi có thể hình dung ra toàn bộ các vấn đề đường ống trong nhà - nhưng giờ đây bức tượng tiểu thiên sứ đã được thổi cát sạch bóng và lộ ra màu ngà bóng mượt, chỉ còn ánh nắng và bóng râm bao phủ lên nó. Những khóm hồng Louisa treo lủng lẳng với những đóa hoa khổng lồ đỏ chót, ẩn hiện trên đường biên phía sau đài phun như những giọt máu lấm tấm trên chiếc khăn tay màu trắng.
Ba tôi quỳ gối trước chiếc đài và vén ra một lớp cỏ mạng nhện, tay kia chỉ vào một tấm bảng đặt hơi ghếch trên phiến đá bao quanh toàn bộ chiếc đài phun. Ở chính giữa tấm bảng là những chữ số La Mã XLIII được khắc trên ấy. Rồi ông đi vòng quanh cái bệ bằng đá và chỉ tiếp hai chữ số La Mã khác, XXIV và XLI, mỗi số trải rộng ra từ những số còn lại.
Jack nhìn chăm chú vào con số cuối cùng trong một phút. “Ðó là những con số bốn mươi ba, hai mươi bốn, và bốn mươi mốt. Nó có ý nghĩa gì với mọi người không?”
“Tôi hoàn toàn chẳng nghĩ ra được gì,” ba tôi nói. “Nhưng có lẽ khi ta tiếp tục với công việc trùng tu ngôi nhà, thì nó tự khắc sẽ đến với ta thôi.”
Jack bắt đầu đi vòng quanh chiếc đài phun nước, vừa đi vừa vạch lớp cỏ ra để nghiên cứu các con số cho đến khi anh đi xong một vòng. Anh quay lại nhìn tôi. “Chiếc đài này có được xây cùng lúc với ngôi nhà hay không?”
“Không. Sophie đã phải nghiên cứu để nộp đơn cho Ủy ban và phát hiện rằng chiếc đài phun chưa được lắp đặt cho đến năm một chín ba mốt.” Chúng tôi giao mắt nhìn nhau, và tôi biết cả hai đều nghĩ đến cùng một việc - rằng nó được lắp đặt một năm sau khi Louisa mất tích.
“Vậy là tôi cũng có vài việc nghiên cứu phải làm rồi đây,” Jack nói. “Giờ thì mình đi mua đồ ăn chiều và xem hết những mớ giấy tờ mà tôi tìm được trên căn gác mái. Biết đâu lại có giấy tờ nào đưa chúng ta theo đúng hướng thì sao.”
Với một chút tự mãn, tôi nói, “Không được rồi. Tối nay tôi đi ăn tối với Marc.”
Jack gật đầu, môi anh mím lại. “Có lẽ cuối cùng thì hắn cũng sẽ hôn cô đấy.”
Ba tôi phủi hai tay vào nhau rồi ho nhẹ. “Thôi, ba phải quay lại cái vườn ươm cây không dùng hóa chất độc hại ấy và mua thêm phân bón. Nhớ cho ba biết nếu bọn con phát hiện ra cái gì nhé.”
“Chắc chắn rồi,” Jack nói. Tôi chào tạm biệt và nhìn ba tôi đi qua một trong những lối đi bằng gạch và rời khỏi khu vườn.
“Vậy ra, cô lại có hẹn với Marc Longo tối nay.”
“Phải, chỉ ăn tối thôi. Tôi sẽ mang theo một vài quảng cáo đăng bán nhà cho anh ấy và để xem anh ấy có muốn tôi hẹn với chủ nhà hay không.”
“Và hắn không thể làm việc này trong suốt giờ làm việc bình thường.”
Giọng nói và tâm trạng của Jack khiến tôi bỡ ngỡ. Nếu tôi mộng hão, tôi sẽ cho rằng anh đang ghen. Nhưng việc anh không thích Marc một cách vô lý, cộng với sự kết tội của anh rằng Marc đang có ý đồ gì khác, thì thật là khó hiểu, nếu không nói là hơi xấc láo một chút. Tôi vươn thẳng vai lên. “Anh ấy là một người rất bận rộn. Buổi tối thường thoải mái hơn cho anh ấy.”
“Chắc chắn rồi,” Jack nói. “Cũng như các buổi cuối tuần ở đảo Isle of Palms.”
“Chính xác,” tôi nói, giọng không đủ tự tin lắm. Tôi đã hơi hy vọng rằng sẽ có việc gì đó đi xa hơn công việc một chút, nhưng Marc cho đến nay vẫn hoàn toàn là một quý ông lịch sự, lúc nào cũng rất ân cần chu đáo để ý đến từng nhu cầu và sự thoải mái cho tôi và, chẳng may, cả sự riêng tư của tôi nữa. Tôi muốn nghĩ rằng anh chỉ thật lòng lo lắng cho nhu cầu được nghỉ dưỡng của tôi, và rằng anh xem tôi như một quý cô đứng đắn, nhưng tôi vẫn thấy nó làm sao ấy. Và tôi đã bị anh cuốn hút. Anh có cái gì đó rất bí ẩn và có óc hài hước kiểu châm biếm. Nhưng cứ mỗi khi tôi nhìn lên đôi mắt nâu của anh, thì tôi lại chỉ muốn được nhìn thấy đôi mắt xanh mà thôi.
“Tôi sẽ ở đây xem hết đống giấy tờ ấy và chờ cô quay về, nếu cô muốn ghé vào xem. Tôi cũng sẽ cho cô biết nếu điện thoại lại reo và không có ai ở đầu dây bên kia.”
“Cám ơn,” tôi nói. “Làm việc vui nhé.”
Anh giơ tay lên để tạm biệt, rồi nhét hai bàn tay vào túi quần và đi thẳng. Tôi lại bắt được một sự chuyển động từ góc mắt và tôi nhẹ nhàng quay người để lại thấy người thiếu phụ và đứa trẻ bên cạnh cây sồi. Tôi quay sang đối diện với họ, và họ biến mất, chiếc xích đu vẫn đứng yên như thể họ chưa từng ở đấy bao giờ.