29 Quyển 3 - Chương 5: Biến cố trong núi
“Đệ tử bái kiến sư công*.” Thẩm Thiên Huy dập đầu nói, nghe cứ như lời thoại trong phim võ hiệp.
(*sư công: Cha của sư phụ.)
Trưởng lão Mễ nghe thấy thế liền cười ha ha:”Ồ, hóa ra con chính là tên nhóc được Hoành nhi thu nhận à, đứng lên đi.”
Sau đó, ông lại chuyển sang nói với Vu Dương: “Còn cậu là tên yêu quái đó sao?”
Rồi lại quay sang nói với chúng tôi: “Thanh Loan và Huyền Kỳ đúng không? Ái chà, để ta xem, đều lớn đến vậy rồi.”
Ông ấy là ai? Hoành nhi là ai? Tôi và Huyền Kỳ nhìn nhau, không biết là chuyện gì xảy ra.
“Đây là cha của ông nội hai người.” Thẩm Thiên Huy khẽ nói với chúng tôi “Ông cố.”
Chúng tôi hết hồn, ông cố?!
Trưởng lão Mễ cười ha ha một tiếng: “Aizzz, không ngờ lão già như ta đây còn chưa chết, sống tạm bợ trên đời, Hoành nhi đã đi trước ta một bước rồi.”
“Sư công, trên núi có chuyện gì vậy, sao nghe qua hình như không bình thường lắm?” Thẩm Thiên Huy cung kính hỏi.
Trưởng lão Mễ thở dài: “Đây là chính là chuyện mấy năm gần đây mới có. Mấy đứa đừng vội, đến nhà của ta đi, từ từ ta nói cho mà nghe, được không?”
Nói rồi cũng không đợi chúng tôi trả lời, xoay người đi vào trong thôn: “Thuận tiện cũng nói cho ta biết, con mèo yêu này là chuyện gì.”
Đi được mấy bước, tôi liền kéo Thẩm Thiên Huy ra sau, bắt anh ta giải thích một chút tại sao có thể xác định trưởng lão Mễ là ông cố.
“Bản lĩnh của tôi là do ông cụ dạy, bản lĩnh của ông cụ là do cha của ông dạy.” Anh ta nói “Trưởng lão Mễ dùng pháp thuật do đích thân ông cụ dạy tôi, tuyệt đối không thể nhầm được.”
“Thế nhưng… ông cố…” Tôi nhất thời cứng họng, không biết nên biểu đạt thế nào.
“Tôi cũng là lần đầu tiên nhìn thấy sư công.” Thẩm Thiên Huy suy nghĩ một lúc rồi nói. “Lần trước, khi tôi đến lấy đôi bao tay, ông cụ bảo tôi là cha ông cũng ở đây, đáng tiếc là cụ đang bế quan, không thể gặp được.”
“Hai đứa kia, đi nhanh lên.” Trưởng lão Mễ quay đầu gọi chúng tôi “Muốn nói gì vào nhà rồi nói.”
Bất đắc dĩ, chúng tôi đành đuổi theo mấy người phía trước. May là cũng không xa lắm, đi qua nhà của bác khoảng hai ba phút nữa là đến.
Đây là một ngôi nhà gạch nho nhỏ, bài trí đơn giản, tất cả đồ dùng đều làm bằng đá, giường đá, ghế đá, bàn đá….
“Ngồi tự nhiên đi.” Trưởng lão Mễ đặt quải trượng vào sau cửa rồi bảo chúng tôi.
Đợi mọi người đều đã ngồi, ông cũng ngồi xuống bên mép giường, cười híp mắt nhìn tôi và Huyền Kỳ.
“Lớp mấy rồi?” Ông hỏi câu hỏi mà tất cả các trưởng bối khác đều thích hỏi.
“Đại học năm ba rồi ạ.” Huyền Kỳ ngoan ngoãn trả lời.
Trưởng lão Mễ — Giờ nên gọi là ông cố mới đúng — gật gật đầu nói: “Thời gian trôi qua nhanh thật, lần đầu tiên ta gặp hai đứa, hai đứa còn chưa biết nói đâu.”
“Ông cố.” Huyền Kỳ lại ngoan ngoãn gọi một tiếng: “Rốt cuộc trên núi là cái gì? Sao bác lại không biết người là ông nội của bác chứ? Trước kia ông nội làm gì vậy ạ? Với cả…”
“Từ từ, hỏi từng câu một thôi.” Ông cố xen ngang lời cậu.
Dừng một chút, ông lại nói: “Mắt của các con nhìn thấy nhiều thứ hơn người khác à?”
Ông thấy chúng tôi gật đầu thì nói: “Đến hôm nay ta mới biết chuyện này. Trong gia tộc chúng ta, đôi mắt như thế là di truyền, Hoành nhi có nhưng con của Hoành nhi lại không có, ta cứ tưởng đám các cháu đều không có. Không ngờ, Hoành nhi lại gạt ta, còn giấu diếm lâu như thế.”
Tôi và Huyền Kỳ hai mặt nhìn nhau. Quả thật không ngờ, chuyện chúng tôi có đôi mắt Âm Dương, ông nội lại gạt cha mình.
“Thật ra thì như vậy cũng là để bảo vệ các cháu thôi.” Ông nội nói tiếp, “Đôi khi, nhìn thấy quá nhiều cũng không phải chuyện tốt. Chỉ là, cho dù có giấu diếm bao lâu đi nữa cũng không thoát khỏi vận mệnh, rốt cuộc mấy đứa vẫn đến đây.”
“Nơi này có liên quan gì với chúng cháu?” Huyền Kỳ hỏi.
Ông cố suy nghĩ một chút: “Vậy phải nói từ hai trăm năm trước. Lúc ấy, trên núi có một con Bạch Hổ tinh*, thường xuyên xuống núi ăn súc vật, thậm chí ăn cả thịt người, rất phá phách. Pháp sư, trừ ma đến không ít người nhưng đều không có cách nào trị được nó. Cuối cùng là do ông nội của ta dùng Phược Hổ trận** mới có thể tóm được nó. Thấy nó ở trong trận đau đớn cầu xin tha thứ, ông nội ta động lòng trắc ẩn, không giết nó, chỉ ra lệnh cho nó phải tự ăn năn, khi nào đã hối cải mới cho nó ra ngoài. Một lần ăn năn này đã trải qua suốt một trăm năm, ông nội ta trước khi chết đã gọi cha ta đến đây, phá trận cho nó ra ngoài, hơn nữa còn lập di huấn, con trưởng mỗi đời đều có nghĩa vụ đến đây canh giữ núi này, làm cho con hổ kia sợ, tránh chuyện nó lại làm xằng làm bậy. Cha ta là con trưởng nên mới định cư ở đây.”
(*Bạch Hổ tinh: Con cọp trắng thành tinh.
**Phược Hổ trận: Trận pháp trói hổ.)
“Hóa ra không phải là non xanh nước biếc, khí hậu hợp lòng người gì cả…” Huyền Kỳ nói thầm.
Ông cố “Ừ” một tiếng rồi nói: “Chỉ là, một trăm năm sau, nơi này quả thật cũng dần non xanh nước biếc, khí hậu hợp lòng người. Trong đó, con hổ trắng kia cũng có công không nhỏ. Nó dùng pháp lực bảo vệ nơi này không bị thiên tai, cũng coi như tích công đức, bù lại tội nghiệp khi trước. Thế nhưng, dù nó có che dấu hành tung đến đâu cũng có lúc bị người nhìn thấy. Cho nên câu chuyện Sơn Thần phù hộ nơi này dần được truyền ra, cha ta còn thuận theo sửa đổi lại câu chuyện, thêu dệt thành truyền thuyết, lễ tế cũng có từ đây.”
“Vậy sao ông nội không đến đây canh giữ mà lại là bác tới ạ? Sao bác lại không biết Người là ông nội của bác?” Lòng tò mò của Huyền Kỳ lúc nào cũng nhiều hơn tôi.
Ông cố cười cười: “Hoành nhi không phải con trưởng, nó còn có một anh trai, chỉ là đã chết non rồi. Còn bác của các con, đây cũng chính là ý của Hoành nhi. Khi nó vừa biết đứa con đầu tiên của mình là con trai, vừa tròn tuổi, Hoành nhi đã đem con đưa đến đây. Lúc ấy, mắt của đứa trẻ đó rất bình thường nên cũng không nói cho nó biết nhiều chuyện, để nó sống như một người bình thường.”
“Ngay cả chuyện Người là ông nội của bác cũng không thể nói sao?” Tôi cảm thấy, dù là vì muốn tốt cho bác nhưng ông cháu không thể nhận mặt nhau thì cũng hơi quá rồi.
Ông cố thở dài: “Đây là ý của ta, mấy chuyện này, biết càng ít càng tốt.”
Tôi với Huyền Kỳ lại nhìn nhau, đều cảm thấy vô cùng đồng ý.
“Trước đây ông nội làm gì vậy ạ?” Huyền Kỳ lại hỏi vấn đề mà mình đã thắc mắc từ lâu.
“Ta cũng không biết.” Ông cố nói “Ta không hỏi nó, nó cũng chưa từng nhắc đến.”
Đối với câu trả lời này, Huyền Kỳ vô cùng thất vọng.
“Vậy, Huyền Kỳ…” Ông cố hơi cúi người, nắm lớp da trên cổ Diệu Diệu rồi nhấc cô ấy lên: “Con mèo yêu này…”
“Là vợ của cháu cố người đó.” Tôi cướp lời Huyền Kỳ, sau đó kể lại chuyện của Diệu Diệu.
Nghe xong, ông cố liền cười đến híp cả mắt đâu: “Ừ, tốt tốt, cháu dâu à, rất tốt.”
Lúc này, có lẽ Thẩm Thiên Huy cảm thấy mấy người chúng tôi nói chuyện nhà quá lâu, càng nói càng xa làm trễ nải chuyện chính, liền nói: “Sư công, trên núi là có chuyện gì?”
Ông cố vừa nghe, sắc mặt liền trở nên lạnh lùng, nói: “Khoảng mười mấy năm trước, chỉ trong một đêm mà tất cả vong linh thường tới lui trong thôn đều biến mất, ta men theo hơi thở chúng nó lưu lại mà đuổi lên núi, phát hiện ở chỗ vốn bày Phược Hổ trận, lại được dùng măng để bày một cái Khốn Long trận*, hơi thở của vong linh biến mất ở đây. Lúc ấy ta cũng không để ý, bởi vì thoạt nhìn trận này chỉ là hình thái ban đầu của trận pháp do một người có pháp lực còn thấp bày ra. Mấy ngày sau, từ hướng đó bỗng nhiên truyền đến từng đợt gợn sóng khi trận pháp được khởi động. Tối hôm đó, có người cứ như bị điều khiển đi lên núi. Khi trở về, đã thiếu đi một hồn một phách, trở nên điên điên khùng khùng. Sau mấy ngày, mỗi khi đến tối đều có người lên núi, có thể là điên khùng trở về, cũng có thể là biến mất vĩnh viễn. Người trong thôn cũng từng đi tìm vào ban ngày nhưng sống không thấy người, chết cũng chẳng thấy xác. Ta đi theo mấy người họ cũng khômng tìm ra manh mối gì. Aizz, chỉ trách ta không tinh thông trận pháp…”
(*Khốn Long trận: Trận pháp bắt rồng)
Sau khi vào nhà, Vu Dương chỉ ngồi trong chốc lát rồi đứng dậy tựa vào khung cửa, nhìn về phía núi, nghe thấy biến cố này liền quay đầu lại nói: “Ông nhìn rõ đó là Khốn Long trận à?”
Ông cố gật đầu: “Đúng vậy. Ta có chú ý kĩ, những người kia đều đi lên núi vào lúc mười hai giờ đêm, cho nên ta không chỉ không cho mọi người lên núi vào buổi tối, còn dán bùa ở các cửa mỗi nhà. Giờ đây, cứ đến mười hai giờ, nhà nhà đều đóng cửa, không ai dám ra ngoài.”
“Cứ lên xem một chút mới biết được.” Vu Dương lại chuyển ánh mắt ra ngoài cửa.
Ông cố nhìn anh ta một lúc: “Nếu cậu đúng là yêu quái mà Hoành nhi thường nhắc tới thì đi đi. Thay ta cám ơn con hổ trắng kia đã bảo vệ nơi này bình an.”
“Vậy chúng ta cũng đi thôi.” Huyền Kỳ đứng lên định đi ra ngoài.
“Cháu cũng muốn đi?” Ông cố kinh hãi.
Huyền Kỳ gật đầu nói: “Dạ đúng, chúng cháu cùng đi ạ.”
“Không được!” Thái độ của ông cố vô cùng kiên quyết.
“Cháu nhất định phải đi.” Thái độ của tôi cũng vô cùng kiên quyết.
Ông cố nóng nảy: “Nơi đó không phải danh lam thắng cảnh gì, có thể sẽ không thể trở về.”
Tôi lấy thanh chủy thủ bị gãy bên hông ra, đặt lên bàn: “Ông cố, đây là vật mà trước khi đi ông nội để lại cho cháu, cháu không cẩn thận làm hỏng rồi. Vị Xảo Tượng trên núi kia có thể sửa được nó, cho nên cháu nhất định phải đi.”
Ông cố nhìn thấy chủy thủ, mặt liền biến sắc, đứng vụt dậy, nhìn tôi rồi lại nhìn Thẩm Thiên Huy.
Thẩm Thiên Huy không nói, Vu Dương đành từ từ đi đến nói: “Ông ạ, ông không nhìn lầm đâu, đây là vật đặc biệt tạo ra cho Thanh Loan, bên trong có máu của cô ấy, cho nên nếu muốn sửa được nó, chuyến đi này, cô ấy nhất định phải đi.”
Ông cố nhìn chúng tôi một lần, thở dài: “Thanh Loan, có lẽ cháu cũng biết đạo lý ‘Thất phu vô tội, hoài bích kì tội’*. Mặc dù ta không biết trên người cháu có thứ gì, nhưng đồ có tốt cũng sẽ chỉ mang lại tai họa. Trước khi nghĩ ra cách lấy nó ra, cháu phải vô cùng cẩn thận.
(*Thất phu vô tội, hoài bích kì tội: Kẻ vô tri không có tội, chỉ vì có bảo ngọc mà mang tội. Ý nói người bình thường vốn không có tội, nhưng chỉ vì mang vật quý bên người mà có thể chuốc họa vào thân.)
“Ông cố….” Tôi đứng lên nhìn ông lão trước mắt, không phản bác được. Giờ khắc này, tôi thật hận không thể móc mắt mình ra.
“Ông yên tâm đi, trừ khi cháu chết, nếu không nhất định sẽ bảo vệ Thanh Loan chu toàn.” Vu Dương đứng sau lưng tôi, lạnh nhạt nói.